Tranh xơ dừa Đức Phật Thích Ca ngồi dưới cội bồ đề giảng pháp
Cơ bản
Tóm tắt
Nội dung
02/03/2020Hiện với tất cả
Thuộc mục:
Ảnh tiêu đề:
HiệnHiện Giá TT: 20000000 - Giá bán: 20000000
Tên:
Tranh xơ dừa Đức Phật Thích Ca ngồi dưới cội bồ đề giảng pháp
Thẻ Keywords (67 ký tự):
Tranh xơ dừa Đức Phật Thích Ca ngồi dưới cội bồ đề giảng pháp
Thẻ Description (160 ký tự):
Tranh xơ dừa Đức Phật Thích Ca ngồi dưới cội bồ đề giảng pháp
Thiết lập:Duyệt: Duyệt - Loại tin: Hot - ---Chia sẻ---
Url nguồn:
Tóm tắt (Chỉ viết ngắn gọn ko viết dài quá)

<p><b>Siddhārtha Gautama</b> (tiếng Phạn: सिद्धार्थ गौतम), phi&ecirc;n &acirc;m H&aacute;n-Việt l&agrave; Tất-đạt-đa Cồ-đ&agrave;m, hay c&ograve;n gọi l&agrave; Shakyamuni (tiếng Phạn: शाक्यमुनि) - phi&ecirc;n &acirc;m H&aacute;n-Việt l&agrave; <b>Th&iacute;ch-ca M&acirc;u-ni</b>, l&agrave; một triết gia, học giả, người s&aacute;ng lập n&ecirc;n Phật gi&aacute;o, từng sống v&agrave;o thời k&igrave; Ấn Độ cổ đại khoảng giữa thế kỷ thứ 6 v&agrave; 4 trước C&ocirc;ng nguy&ecirc;n.</p>
webID: 76C5
<div>Theo c&aacute;c bộ kinh Phật gi&aacute;o truyền lại v&agrave; sử liệu, &ocirc;ng l&agrave; một vương tử ho&agrave;ng tộc Gautama (Cồ-Đ&agrave;m) của tiểu quốc Shakya (Th&iacute;ch-ca) ở Kapilavastu (Ca-tỳ-la-vệ), đ&atilde; từ bỏ đời sống ph&uacute; qu&yacute; để t&igrave;m đạo. Sau s&aacute;u năm cầu đạo, &ocirc;ng đạt được gi&aacute;c ngộ t&acirc;m linh v&agrave; d&agrave;nh 45 năm cuối của cuộc đời m&igrave;nh cho việc truyền dạy gi&aacute;o l&yacute; ở ph&iacute;a đ&ocirc;ng tiểu lục địa Ấn Độ. Siddhārtha đ&atilde; đề xướng con đường Trung đạo (Majjhimāpaṭipadā), vừa từ bỏ đời sống xa hoa v&agrave; cũng vừa từ bỏ lối tu &eacute;p x&aacute;c khổ hạnh thịnh h&agrave;nh trong c&aacute;c học thuyết t&ocirc;n gi&aacute;o Ấn Độ thời đ&oacute;[6]. Những lời gi&aacute;o ph&aacute;p trong thời gian &ocirc;ng đi truyền b&aacute; đ&atilde; đặt nền tảng cho sự h&igrave;nh th&agrave;nh của Phật gi&aacute;o.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Siddhārtha Gautama được c&aacute;c Phật tử coi l&agrave; một bậc đạo sư đ&atilde; gi&aacute;c ngộ vi&ecirc;n m&atilde;n v&agrave; tự giải tho&aacute;t ho&agrave;n to&agrave;n khỏi quy luật sinh tử lu&acirc;n hồi, hiểu r&otilde; được sự vận h&agrave;nh của thế giới xung quanh, đồng thời truyền b&aacute; kinh nghiệm gi&aacute;c ngộ của m&igrave;nh cho người kh&aacute;c để họ c&oacute; thể tự chấm dứt khổ đau bản th&acirc;n, c&oacute; được hạnh ph&uacute;c tối thượng. Chi tiết về cuộc đời, những lời dạy v&agrave; c&aacute;c giới luật của &ocirc;ng được những học tr&ograve; ghi nhớ v&agrave; tổng hợp lại sau khi Siddhārtha Gautama qua đời. H&agrave;ng loạt những bản kinh ghi lại lời dạy của &ocirc;ng được lưu giữ qua truyền miệng v&agrave; được viết th&agrave;nh s&aacute;ch 200 năm sau.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div><b>Bối cảnh v&agrave; gia thế</b></div>
<div>&nbsp;</div>
<div>D&ugrave; c&oacute; nhiều ho&agrave;i nghi v&agrave; do dự trước đ&acirc;y, nhưng sau c&aacute;c kh&aacute;m ph&aacute; khảo cổ v&agrave;o đầu thế kỷ 20, hầu hết c&aacute;c học giả ng&agrave;y nay đều c&ocirc;ng nhận &ocirc;ng đ&atilde; sống v&agrave; truyền dạy gi&aacute;o l&yacute; trong thời Mahajanapada dưới thời cai trị của Bimbisāra (Tần-b&agrave;-sa-la)( 558 - 491 TCN) v&agrave; qua đời trong thời gian đầu của triều đại Ajātaśatru (A-x&agrave;-thế), người kế thừa của Bimbisāra. Cuộc đời của Siddhartha kh&ocirc;ng những tr&ugrave;ng hợp với thời kỳ ph&aacute;t triển của B&agrave;-la-m&ocirc;n, m&agrave; c&ograve;n tr&ugrave;ng với sự ph&aacute;t triển của trường ph&aacute;i tu khổ hạnh Sramana như Kỳ-na gi&aacute;o, Ājīvika, Aj&ntilde;ana, Cārvāka (triết học duy vật kho&aacute;i lạc).</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Thời điểm ch&iacute;nh x&aacute;c năm sinh v&agrave; năm mất theo lịch hiện đại của &ocirc;ng kh&ocirc;ng được ghi nhận r&otilde;, dao động trong khoảng từ 624 tới 537 trước C&ocirc;ng nguy&ecirc;n. Tuy nhi&ecirc;n, đại hội Phật gi&aacute;o thế giới đ&atilde; thống nhất cho rằng Siddhartha sinh khoảng năm 624 trước C&ocirc;ng nguy&ecirc;n[8] v&agrave; qua đời khi 80 tuổi (năm 544 TCN).</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Cha &ocirc;ng l&agrave; Suddhodana (Tịnh-phạn), người đứng đầu tiểu quốc Shakya (Th&iacute;ch-ca), một tiểu quốc nằm ở v&ugrave;ng bi&ecirc;n giới Ấn Độ - Nepal ng&agrave;y nay, c&oacute; kinh đ&ocirc; l&agrave; Kapilavastu (Ca-tỳ-la-vệ)). Mẹ &ocirc;ng l&agrave; Maya (Ma-da), người tiểu quốc Koli l&aacute;ng giềng.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Cuộc sống ban đầu v&agrave; h&ocirc;n nh&acirc;n</div>
<div>Tất-đạt-đa được sinh ra tại vườn Lumbini (L&acirc;m-tỳ-ni), nay thuộc Nepal.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Kinh Bản Sinh (Jataka) ghi về nh&acirc;n duy&ecirc;n l&agrave;m th&acirc;n mẫu Phật của b&agrave; Maya như sau: c&aacute;ch đ&acirc;y 91 đại kiếp Tr&aacute;i đất, đ&atilde; c&oacute; 1 vị Phật Ch&aacute;nh Đẳng Gi&aacute;c t&ecirc;n l&agrave; Vipassī (Phật Tỳ-b&agrave;-thi) ra đời. C&oacute; một c&ocirc;ng nương (con một vị đại thần trong triều đ&igrave;nh) đ&atilde; c&uacute;ng dường Phật Tỳ-b&agrave;-thi với l&ograve;ng ch&iacute; th&agrave;nh v&agrave; ước nguyện rằng trong tương lai, c&ocirc; sẽ được l&agrave;m mẹ của 1 vị Phật. Đức Phật Tỳ-b&agrave;-thi đ&atilde; thọ k&yacute; cho c&ocirc; sẽ được như nguyện. C&ocirc;ng nương đ&oacute; ch&iacute;nh l&agrave; tiền kiếp của ho&agrave;ng hậu Maya</div>
<div>&nbsp;</div>
<div style="text-align: center;"><img src="http://tranhxodua.cwe.vn/472584D2003B40A0/8D8C0F32DE00E1054725851F00187BDE/$File/300px-BabyBuddha.jpg"></div>
<div style="text-align: center;"><i>Nh&agrave; ti&ecirc;n tri Asita (A-tư-đ&agrave;) dự đo&aacute;n sau n&agrave;y đứa trẻ Siddhartha sau n&agrave;y sẽ trở th&agrave;nh đấng gi&aacute;c ngộ v&agrave; truyền dạy ch&aacute;nh ph&aacute;p cho thế gian</i></div>
<div>Trước đ&oacute; mười th&aacute;ng, trong khi được vua cho ph&eacute;p giữ 8 giới thanh tịnh nh&acirc;n dịp lễ cầu mưa (Asadh Utsav), tại th&agrave;nh Kapilavastu (Ca-tỳ-la-vệ), ho&agrave;ng hậu Maya nằm mộng thấy một con voi trắng s&aacute;u ng&agrave;, v&ograve;i cuốn một hoa sen lớn m&agrave;u trắng, từ tr&ecirc;n trời bay xuống chui v&agrave;o h&ocirc;ng phải của b&agrave;, l&uacute;c đ&oacute; b&agrave; cảm thấy th&acirc;n t&acirc;m kho&aacute;i lạc, s&aacute;ng ch&oacute;i như &aacute;nh trăng rằm. Thức dậy, b&agrave; đem chuyện giấc mộng kỳ lạ kể cho nh&agrave; vua nghe. Nh&agrave; vua liền cho mời 64 nh&agrave; ti&ecirc;n tri B&agrave;-la-m&ocirc;n đến giải mộng; c&aacute;c vị n&agrave;y đo&aacute;n l&agrave; ho&agrave;ng hậu đ&atilde; mang thai v&agrave; ho&agrave;ng tử sắp được sinh ra sẽ l&agrave; một đại đế hoặc một th&aacute;nh nh&acirc;n tiếng tăm lừng lẫy.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Theo c&aacute;c kinh điển Phật gi&aacute;o, ngay từ l&uacute;c sinh ra, &ocirc;ng đ&atilde; c&oacute; đầy đủ tướng tốt (Ba mươi hai tướng tốt). T&ecirc;n được chọn l&agrave; Siddhartha (Tất-Đạt-Đa) c&oacute; nghĩa l&agrave; &ldquo;người th&agrave;nh đạt nguyện vọng&rdquo;.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>L&uacute;c n&agrave;y Vua Suddhodana nghe 1 tin đồn sẽ c&oacute; 1 vị cao nh&acirc;n đến thăm. Người đ&oacute; l&agrave; tu sĩ Asita (A-tư-đ&agrave;), đ&atilde; chứng thiền tới cấp rất cao - Phi tưởng phi phi tưởng. Khi xem c&aacute;c tướng của th&aacute;i tử th&igrave; th&aacute;i tử giơ 2 ch&acirc;n l&ecirc;n đầu Asita, ng&agrave;i nh&igrave;n xuống l&ograve;ng b&agrave;n ch&acirc;n v&agrave; n&oacute;i &quot;Dưới 2 l&ograve;ng b&agrave;n ch&acirc;n của th&aacute;i tử, c&oacute; h&igrave;nh b&aacute;nh xe ng&agrave;n căm v&agrave; 32 tướng tốt, sau n&agrave;y chắc chắc th&aacute;i tử sẽ l&agrave; một nh&agrave; tu h&agrave;nh đắc đạo, hoặc l&agrave; một chuyển lu&acirc;n th&aacute;nh vương cai trị to&agrave;n Ấn Độ&quot;. Khi ti&ecirc;n nh&acirc;n Asita vừa n&oacute;i xong ng&agrave;i bật kh&oacute;c, vua Suddhodana hỏi tại sao kh&oacute;c th&igrave; ti&ecirc;n nh&acirc;n Asita đ&aacute;p lại rằng &quot;sau n&agrave;y t&ocirc;i kh&ocirc;ng thể nghe 1 bậc th&aacute;nh nh&acirc;n giảng ph&aacute;p v&igrave; t&ocirc;i đ&atilde; qu&aacute; gi&agrave; rồi&quot; (tu sĩ Asita đ&atilde; ti&ecirc;n tri được rằng thọ mạng của &ocirc;ng sắp hết, &ocirc;ng sẽ qua đời trước khi Siddhartha th&agrave;nh đạo). N&oacute;i xong vua cha Suddhodana bực tức, n&oacute;i rằng &quot;Con ta sẽ l&agrave; 1 bậc chuyển lu&acirc;n th&aacute;nh vương, v&agrave; sẽ l&agrave; 1 Kshastriya (S&aacute;t-đế-lỵ), n&ecirc;n t&ocirc;i xin mời ti&ecirc;n nh&acirc;n về cho, t&ocirc;i c&ograve;n phải cho c&aacute;c thần d&acirc;n xem con t&ocirc;i đ&atilde;&quot;. L&uacute;c n&agrave;y ti&ecirc;n nh&acirc;n Asita đi về v&agrave; n&eacute;n lại giữa đ&aacute;m đ&ocirc;ng để nh&igrave;n mặt của th&aacute;i tử v&agrave; đệ tử &ocirc;ng cũng c&oacute; hỏi rằng &quot;tại sao ng&agrave;i kh&ocirc;ng về&quot;, Asita đ&aacute;p &quot;V&igrave; ta đang nh&igrave;n cả 1 vũ trụ lần cuối&quot;.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div style="text-align: center;"><img src="http://tranhxodua.cwe.vn/472584D2003B40A0/8D8C0F32DE00E1054725851F00187BDE/$File/240px-Prince_Siddhartha_with_his_maternal_aunt_Queen_Mahaprajapati_Gotami.jpg"></div>
<div style="text-align: center;"><i>Tranh vẽ th&aacute;i tử Siddhartha v&agrave; b&agrave; Mahaprajapati (tranh vẽ theo phong c&aacute;ch Hy Lạp cổ)</i></div>
<div>Bảy ng&agrave;y sau khi sinh th&igrave; ho&agrave;ng hậu Maya - mẹ của Siddhartha mất, &ocirc;ng được người d&igrave; ruột l&agrave; Mahāpajāpatī Gotamī (Ma-ha-ba-x&agrave;-ba-đề) - Đại-&Aacute;i-Đạo Kiều Đ&agrave;m Di chăm s&oacute;c. B&agrave; Gotamī l&agrave; em g&aacute;i của ho&agrave;ng hậu Maya (cả hai c&ugrave;ng kết h&ocirc;n với vua Suddhodana) đ&atilde; t&igrave;nh nguyện nhận nu&ocirc;i dưỡng Th&aacute;i tử Siddhartha, c&ograve;n con ruột của m&igrave;nh l&agrave; Nanda th&igrave; giao lại cho người v&uacute; chăm s&oacute;c. Về sau, khi Siddhartha đ&atilde; đắc đạo, B&agrave; Gotamī đ&atilde; xin Phật cho ph&eacute;p xuất gia, trở th&agrave;nh nữ đệ tử (Tỳ-kheo ni) đầu ti&ecirc;n của Phật gi&aacute;o v&agrave; sau n&agrave;y đ&atilde; đắc quả A-la-h&aacute;n:</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Kinh Phật n&oacute;i rằng mẹ của mọi vị Phật đều sẽ qua đời v&agrave;o 7 ng&agrave;y sau khi sinh (bởi phước b&aacute;u qu&aacute; lớn của việc đản sinh ra Phật sẽ gi&uacute;p người mẹ xả bỏ th&acirc;n x&aacute;c yếu ớt v&agrave; thọ mạng ngắn ngủi của con người để t&aacute;i sinh l&agrave;m thần tr&ecirc;n c&otilde;i Trời). Sau khi qua đời, b&agrave; Maya đ&atilde; t&aacute;i sinh l&agrave;m 1 vị thần tr&ecirc;n c&otilde;i trời Đ&acirc;u-suất c&oacute; t&ecirc;n l&agrave; Māyādevaputta. Sau n&agrave;y khi th&agrave;nh đạo, Phật Th&iacute;ch Ca đ&atilde; d&ugrave;ng thần lực để thuyết Vi diệu ph&aacute;p cho vị thần (tiền kiếp l&agrave; mẹ m&igrave;nh) tr&ecirc;n c&otilde;i trời n&agrave;y để tỏ l&ograve;ng biết ơn th&acirc;n mẫu.</div>
<div>Về b&agrave; Gotamī, Kinh Bản Sinh (Jataka) ghi về nh&acirc;n duy&ecirc;n l&agrave;m dưỡng mẫu Phật của b&agrave; như sau: c&aacute;ch đ&acirc;y 100.000 đại kiếp Tr&aacute;i đất, đ&atilde; c&oacute; Phật Padumuttara truyền đạo tr&ecirc;n thế gian. C&oacute; một c&ocirc;ng ch&uacute;a đ&atilde; c&uacute;ng dường Phật với l&ograve;ng ch&iacute; th&agrave;nh, một h&ocirc;m khi đang nghe Phật Li&ecirc;n Hoa thuyết ph&aacute;p, c&ocirc;ng ch&uacute;a nhận thấy c&oacute; một Tỳ kheo ni thật đ&aacute;ng t&ocirc;n qu&yacute;, đứng đầu hội ch&uacute;ng Tỳ kheo ni, v&agrave; l&agrave; người nữ đệ tử đạt gi&aacute;c ngộ sớm nhất. B&agrave; liền lập nguyện rằng, trong tương lai, do c&ocirc;ng đức tu tập, b&agrave; sẽ được như vị Tỳ kheo ni ấy. Lời nguyện của b&agrave; đ&atilde; được Đức Phật Padumuttara ấn chứng l&agrave; sẽ th&agrave;nh tựu trong thời kỳ của Đức Phật Shakya (Th&iacute;ch-ca). C&ocirc;ng ch&uacute;a đ&oacute; ch&iacute;nh l&agrave; tiền kiếp của b&agrave; Gotamī</div>
<div>Do lời ti&ecirc;n đo&aacute;n rằng th&aacute;i tử sẽ bỏ đi tu h&agrave;nh &quot;sau khi thấy một người gi&agrave;, một người bệnh, một x&aacute;c chết v&agrave; một sa m&ocirc;n&quot; n&ecirc;n vua Suddhodana t&igrave;m đủ mọi c&aacute;ch cho Siddhartha hưởng đầy đủ lạc th&uacute; trong ho&agrave;ng cung, kh&ocirc;ng bao giờ phải nh&igrave;n thấy c&aacute;c cảnh khổ đau, bệnh hoạn, gi&agrave; chết ở đời.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Siddhartha đ&atilde; sống một cuộc sống thanh tịnh. Vua Suddhodana vốn muốn con &ocirc;ng nối nghiệp m&igrave;nh n&ecirc;n kh&ocirc;ng muốn th&aacute;i tử đi tu. &Ocirc;ng đ&atilde; cho nhiều người danh tiếng dạy dỗ cho con rất kỹ lưỡng, cho th&aacute;i tử hưởng đầy đủ vinh hoa ph&uacute; qu&yacute;, nhất l&agrave; kh&ocirc;ng để th&aacute;i tử tiếp x&uacute;c với cảnh khổ của cuộc đời. Sau n&agrave;y, Phật kể lại: &quot;Đời sống của ta (l&uacute;c bấy giờ) thật l&agrave; tế nhị, v&ocirc; c&ugrave;ng tinh tế. Trong ho&agrave;ng cung, chỗ ta ở, phụ ho&agrave;ng c&oacute; đ&agrave;o ao, x&acirc;y những đầm sen. Khi sen xanh đua nhau khoe m&agrave;u ở đ&acirc;y th&igrave; sen đỏ vươn m&igrave;nh ph&ocirc; sắc ph&iacute;a b&ecirc;n kia, v&agrave; trong đầm b&ecirc;n cạnh sen trắng đua nhau khoe vẻ đẹp dưới &aacute;nh nắng ban mai. Trầm hương của ta d&ugrave;ng đều l&agrave; loại thượng hảo hạng từ xứ Kāsi đưa về. Khăn v&agrave; xi&ecirc;m &aacute;o của ta cũng may to&agrave;n bằng h&agrave;ng lụa bậc nhất từ Kāsi chở đến&quot;.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Năm l&ecirc;n 18 tuổi, Siddhartha kết h&ocirc;n với c&ocirc;ng ch&uacute;a Yaśodharā (Da-du-đ&agrave;-la) của thị tộc Koli.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Theo Kinh Bản Sinh, c&aacute;ch đ&acirc;y 4 A tăng kỳ v&agrave; 100.000 kiếp Tr&aacute;i Đất, tiền th&acirc;n của Tất-đạt-đa l&agrave; tu sĩ Sumedha (Thiện Huệ). Khi đ&oacute; c&oacute; đức Phật tại thế l&agrave; Dīpankara (Phật Nhi&ecirc;n Đăng). Sumedha nh&igrave;n thấy Phật Dīpankara tận mắt, liền ph&aacute;t nguyện sẽ cố gắng tu học cho đến khi được ho&agrave;n to&agrave;n gi&aacute;c ngộ như Phật. Sumedha xin được hoa sen của 1 c&ocirc; g&aacute;i t&ecirc;n l&agrave; Sumita, ch&agrave;ng ch&iacute; th&agrave;nh tung năm hoa sen của m&igrave;nh l&ecirc;n kh&ocirc;ng trung để c&uacute;ng dường Phật. Sumita cũng trao cho ch&agrave;ng 2 b&ocirc;ng hoa sen nhờ d&acirc;ng c&uacute;ng d&ugrave;m, với t&acirc;m nguyện rằng đời đời kiếp kiếp lu&acirc;n hồi về sau sẽ lu&ocirc;n l&agrave; vợ của Sumedha, trợ gi&uacute;p ch&agrave;ng trong mu&ocirc;n kiếp lu&acirc;n hồi cho tới khi ch&agrave;ng th&agrave;nh Phật. Sau đ&oacute;, Sumedha c&ograve;n nằm s&aacute;t đất, lấy th&acirc;n m&igrave;nh để gi&uacute;p Phật bước qua vũng lầy. Đức Phật Dīpankara hoan hỉ thọ k&yacute; rằng 2 người sẽ đạt t&acirc;m nguyện: Sumedha sẽ th&agrave;nh Phật hiệu l&agrave; Sākyamuni (Th&iacute;ch-ca M&acirc;u-ni) trong đời Hiền kiếp (Bhadra kalpa), c&ograve;n c&ocirc; g&aacute;i Sumita sẽ lu&ocirc;n l&agrave; vợ của ch&agrave;ng trong c&aacute;c kiếp lu&acirc;n hồi, cho tới khi ch&agrave;ng th&agrave;nh Phật.</div>
<div>Tu sĩ Sumedha thời xa xưa đ&oacute; ch&iacute;nh l&agrave; tiền kiếp của th&aacute;i tử Siddhartha, c&ograve;n c&ocirc; g&aacute;i Sumita ch&iacute;nh l&agrave; tiền kiếp của c&ocirc;ng ch&uacute;a Yaśodharā.</div>
<div>Tuy thế, theo m&ocirc; tả của c&aacute;c kinh điển Phật gi&aacute;o, c&aacute;c dục lạc kh&ocirc;ng thể giữ ch&acirc;n Siddhartha. Do nh&acirc;n duy&ecirc;n kh&ocirc;ng thể tr&aacute;nh khỏi, sau bốn lần ra bốn cửa th&agrave;nh v&agrave; thấy cảnh người gi&agrave;, người bệnh, người chết v&agrave; một vị tu sĩ, th&aacute;i tử Siddhartha ph&aacute;t t&acirc;m tu h&agrave;nh. Rồi trong một đ&ecirc;m, &ocirc;ng lặng lẽ từ biệt ho&agrave;ng cung, quyết định sống cảnh kh&ocirc;ng nh&agrave; của một tu sĩ.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Tương truyền rằng, cả bốn người trong cảnh ngộ vừa kể l&agrave; do c&aacute;c vị thần tr&ecirc;n thi&ecirc;n giới biến h&oacute;a th&agrave;nh nhằm nhắc nhở &ocirc;ng l&ecirc;n đường tu th&agrave;nh Phật quả. Siddhartha thấy rằng ba cảnh đầu tượng trưng cho c&aacute;i Khổ trong thế gian v&agrave; h&igrave;nh ảnh tu sĩ ch&iacute;nh l&agrave; cuộc đời của &ocirc;ng.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Xuất gia</div>
<div>Năm 30 tuổi, sau khi c&ocirc;ng ch&uacute;a Yaśodharā hạ sinh một b&eacute; trai - được đặt t&ecirc;n l&agrave; Rāhula (nghĩa l&agrave; Chướng ngại), Siddhārtha quyết định từ bỏ cuộc sống xa hoa, l&igrave;a cung điện bất chấp nỗ lực ngăn cản của cha m&igrave;nh. Trong đ&ecirc;m tối, Siddhārtha gọi người n&ocirc; bộc trung th&agrave;nh l&agrave; Channa (Sa-nặc) lấy con ngựa Kanthaka (Kiền Trắc) rồi ra đi. Khi tới bờ s&ocirc;ng Anom&agrave;, Th&aacute;i tử dừng lại, bỏ ngựa, cạo r&acirc;u, cắt t&oacute;c, trao y phục v&agrave; đồ trang sức cho Channa, lệnh cho Channa trở về. Sử s&aacute;ch Phật gi&aacute;o x&aacute;c định rằng đ&oacute; l&agrave; rạng ng&agrave;y mồng 8 th&aacute;ng 2 năm 595 trước c&ocirc;ng nguy&ecirc;n, v&agrave; gọi đ&oacute; l&agrave; cuộc &quot;Đại xả li&quot;, hoặc &quot;Đại xuất h&agrave;nh (cuộc ra đi vĩ đại)&quot;</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Bức tranh kể về Siddhārtha v&agrave; ngựa Kanthaka l&ecirc;n đường xuất gia</div>
<div>Tương truyền rằng, c&aacute;c vị trời tr&ecirc;n thi&ecirc;n giới đ&atilde; ph&ugrave; ph&eacute;p để c&aacute;c l&iacute;nh canh ngủ gục, gi&uacute;p chuyến ra đi của th&aacute;i tử Siddhārtha diễn ra thuận lợi. Khi th&aacute;i tử Siddhārtha cắt t&oacute;c v&agrave; n&eacute;m l&ecirc;n trời, mớ t&oacute;c kh&ocirc;ng rơi xuống m&agrave; bay v&uacute;t l&ecirc;n kh&ocirc;ng trung rồi biến mất, do Śakra (Đế Th&iacute;ch) đ&atilde; hứng lấy mớ t&oacute;c đ&oacute; đem về thờ phụng trong bảo th&aacute;p tr&ecirc;n c&otilde;i trời Tavatimsa (&ETH;ao-lợi) (một cung trời Phạm thi&ecirc;n trong quan điểm Phật Gi&aacute;o. Sau khi trở về, ngựa Kanthaka v&ocirc; c&ugrave;ng buồn b&atilde;, bỏ ăn mấy ng&agrave;y rồi chết. Nhờ thiện nghiệp đưa th&aacute;i tử đi xuất gia, ngựa Kanthaka được t&aacute;i sanh l&agrave;m một vị ti&ecirc;n nam tr&ecirc;n cung trời Tavatimsa , về sau vị thần n&agrave;y đ&atilde; được gặp t&ocirc;n giả Moggallāna (Mục-kiền-li&ecirc;n) - 1 trong 2 đại đệ tử của Phật, v&agrave; kể lại chuyện t&aacute;i sinh của m&igrave;nh.</div>
<div>Khi kể lại c&acirc;u chuyện, vị thần Kanthaka c&oacute; những vần thơ m&ocirc; tả lại cảnh tượng n&agrave;y như sau:</div>
<div>V&agrave;o nửa đ&ecirc;m vương tử xuất gia.</div>
<div>&ETH;i t&igrave;m gi&aacute;c ngộ, gi&atilde; từ nh&agrave;</div>
<div>Ng&agrave;i bảo t&ocirc;i, vừa th&uacute;c mạn sườn:</div>
<div>&quot;H&atilde;y mang ta, hỡi bạn hiền thương</div>
<div>Khi n&agrave;o gi&aacute;c ngộ đường v&ocirc; thượng</div>
<div>Ta sẽ gi&uacute;p người khắp thế gian&quot;.</div>
<div>Khi biết ho&agrave;ng nam Suddhodana,</div>
<div>&ETH;ại danh lừng lẫy, cỡi lưng m&igrave;nh</div>
<div>Với t&acirc;m phấn khởi, đầy hoan hỉ</div>
<div>Ta rước người v&ocirc; thượng ch&iacute; t&ocirc;n.</div>
<div>Siddhārtha bắt đầu thử c&ugrave;ng tu khổ hạnh với nhiều nh&oacute;m tăng sĩ kh&aacute;c nhau. &Ocirc;ng quyết t&acirc;m t&igrave;m c&aacute;ch diệt khổ v&agrave; t&igrave;m mọi đạo sư với c&aacute;c gi&aacute;o ph&aacute;i kh&aacute;c nhau. Theo truyền thống Ấn Độ bấy giờ chỉ c&oacute; con đường khổ hạnh mới đưa đến đạt đạo. C&aacute;c vị đạo sư khổ hạnh danh tiếng thời đ&oacute; l&agrave; A-la-la Ca-lam (阿羅邏迦藍, sa. ārāda kālāma, pi. āḷāra kālāma) v&agrave; Ưu-đ&agrave;-la La-ma tử (優陀羅羅摩子, sa. rudraka rāmaputra, pi. uddaka rāmaputta). Nơi A-la-la Ca-lam, Tất-đạt-đa nhanh ch&oacute;ng đạt đến cấp Thiền V&ocirc; sở hữu xứ (sa. ākimcanyāyatana, pi. āki&ntilde;ca&ntilde;&ntilde;āyatana), nơi Ưu-đ&agrave;-la La-ma tử th&igrave; học đạt đến cấp Phi tưởng phi phi tưởng xứ (sa. naivasamj&ntilde;ā-nāsaṃ&ntilde;āyatana, pi. nevasa&ntilde;&ntilde;ā-nāsa&ntilde;&ntilde;āyatana), l&agrave; trạng th&aacute;i si&ecirc;u việt nhất của thiền định.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Nhưng Siddhārtha cũng kh&ocirc;ng t&igrave;m thấy nơi c&aacute;c vị đ&oacute; lời giải cho thắc mắc của m&igrave;nh. Ngay cả cấp độ thiền định cao nhất l&agrave; &quot;Phi tưởng phi phi tưởng xứ&quot; chưa đạt đến mức độ triệt để cho việc giải tho&aacute;t khỏi khổ đau, kh&ocirc;ng phải l&agrave; ch&acirc;n l&yacute; tối hậu, n&ecirc;n &ocirc;ng quyết t&acirc;m tự m&igrave;nh t&igrave;m đường giải tho&aacute;t. C&oacute; 5 Tỳ-kheo (năm anh em Konda&ntilde;&ntilde;a, (Kiều-trần-như) đồng h&agrave;nh c&ugrave;ng &ocirc;ng).</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Sau 5 năm tu khổ hạnh, c&oacute; l&uacute;c gần kề c&aacute;i chết, Siddhārtha nhận ra đ&oacute; kh&ocirc;ng phải l&agrave; c&aacute;ch tu dẫn đến gi&aacute;c ngộ, bắt đầu ăn uống b&igrave;nh thường, 5 Tỳ-kheo kia thất vọng bỏ đi. C&aacute;ch tu cực khổ được Phật nhắc lại sau khi th&agrave;nh đạo như sau[9]:</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>N&agrave;y Aggivessana, rồi Ta tự suy nghĩ như sau: &quot;Ta h&atilde;y giảm thiểu tối đa ăn uống, ăn &iacute;t từng giọt một, như s&uacute;p đậu xanh, s&uacute;p đậu đen hay s&uacute;p đậu hạt hay s&uacute;p đậu nhỏ.&quot; V&agrave; n&agrave;y Aggivessana, trong khi Ta giảm thiểu tối đa sự ăn uống, ăn từng giọt một, như s&uacute;p đậu xanh, s&uacute;p đậu đen hay s&uacute;p đậu hột hay s&uacute;p đậu nhỏ, th&acirc;n của Ta trở th&agrave;nh hết sức gầy yếu. V&igrave; Ta ăn qu&aacute; &iacute;t, tay ch&acirc;n Ta trở th&agrave;nh như những cọng cỏ hay những đốt c&acirc;y leo kh&ocirc; h&eacute;o; v&igrave; Ta ăn qu&aacute; &iacute;t, b&agrave;n ch&acirc;n của Ta trở th&agrave;nh như m&oacute;ng ch&acirc;n con lạc đ&agrave;; v&igrave; Ta ăn qu&aacute; &iacute;t, xương sống ph&ocirc; b&agrave;y của Ta giống như một chuỗi banh; v&igrave; Ta ăn qu&aacute; &iacute;t, c&aacute;c xương sườn gầy m&ograve;n của Ta giống như rui cột một nh&agrave; s&agrave;n hư n&aacute;t; v&igrave; Ta ăn qu&aacute; &iacute;t, n&ecirc;n con ngươi long lanh của Ta nằm s&acirc;u thẳm trong lỗ con mắt, giống như &aacute;nh nước long lanh nằm s&acirc;u thẳm trong một giếng nước th&acirc;m s&acirc;u; v&igrave; Ta ăn qu&aacute; &iacute;t, da đầu Ta trở th&agrave;nh nhăn nhiu kh&ocirc; cằn như tr&aacute;i b&iacute; trắng v&agrave; đắng bị cắt trước khi ch&iacute;n, bị cơn gi&oacute; n&oacute;ng l&agrave;m cho nhăn nh&iacute;u kh&ocirc; cằn. N&agrave;y Aggivessana, nếu Ta nghĩ: &quot;Ta h&atilde;y rờ da bụng&quot;, th&igrave; ch&iacute;nh xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: &quot;Ta h&atilde;y rờ xương sống&quot;, th&igrave; ch&iacute;nh da bụng bị Ta nắm lấy. V&igrave; Ta ăn qu&aacute; &iacute;t, n&ecirc;n n&agrave;y Aggivessana, da bụng của Ta đến b&aacute;m chặt xương sống. N&agrave;y Aggivessana, nếu Ta nghĩ: &quot;Ta đi đại tiện, hay đi tiểu tiện&quot; th&igrave; Ta ng&atilde; quỵ, &uacute;p mặt xuống đất, v&igrave; Ta ăn qu&aacute; &iacute;t. N&agrave;y Aggivessana, nếu Ta muốn xoa dịu th&acirc;n Ta, lấy tay xoa b&oacute;p ch&acirc;n tay, th&igrave; n&agrave;y Aggivessana, trong khi Ta xoa b&oacute;p ch&acirc;n tay, c&aacute;c l&ocirc;ng t&oacute;c hư mục rụng khỏi th&acirc;n Ta, v&igrave; Ta ăn qu&aacute; &iacute;t. Lại nữa, n&agrave;y Aggivessana, c&oacute; người thấy vậy n&oacute;i như sau: &quot;Sa-m&ocirc;n Gautama c&oacute; da đen.&quot; Một số người n&oacute;i như sau: &quot;Sa-m&ocirc;n Gautama, da kh&ocirc;ng đen, Sa-m&ocirc;n Gautama c&oacute; da m&agrave;u x&aacute;m.&quot; Một số người n&oacute;i như sau: &quot;Sa-m&ocirc;n Gautama da kh&ocirc;ng đen, da kh&ocirc;ng x&aacute;m.&quot; Một số người n&oacute;i như sau: &quot;Sa-m&ocirc;n Gautama da kh&ocirc;ng đen, da kh&ocirc;ng x&aacute;m, Sa-m&ocirc;n Gautama c&oacute; da m&agrave;u v&agrave;ng sẫm.&quot; Cho đến mức độ như vậy, n&agrave;y Aggivessana, da của Ta vốn thanh tịnh, trong s&aacute;ng bị hư hoại v&igrave; Ta ăn qu&aacute; &iacute;t.&quot;</div>
<div>Kh&ocirc;ng đạt giải tho&aacute;t với c&aacute;ch tu khổ hạnh, &ocirc;ng từ bỏ c&aacute;ch tu n&agrave;y. Quả quyết rằng m&igrave;nh đ&atilde; đi đến chỗ c&ugrave;ng cực của c&ocirc;ng phu tu khổ hạnh v&agrave; khổ hạnh kh&ocirc;ng dẫn đến gi&aacute;c ngộ, &ocirc;ng t&igrave;m phương ph&aacute;p kh&aacute;c, v&agrave; nhớ lại một kinh nghiệm thời thơ ấu, l&uacute;c đang ngồi thiền dưới gốc c&acirc;y mận[9]:</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>N&agrave;y Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: &quot;Ta biết, trong khi phụ th&acirc;n Ta, thuộc d&ograve;ng Shakya (Th&iacute;ch-ca) đang c&agrave;y v&agrave; Ta đang ngồi thiền dưới b&oacute;ng m&aacute;t c&acirc;y jambu (di&ecirc;m-ph&ugrave;-đề), Ta li dục, li ph&aacute;p bất thiện chứng v&agrave; tr&uacute; Thiền thứ nhất, một trạng th&aacute;i hỉ lạc do li dục sinh, c&oacute; tầm, c&oacute; tứ.&quot; Khi an tr&uacute; như vậy, Ta nghĩ: &quot;Đạo lộ n&agrave;y c&oacute; thể đưa đến gi&aacute;c ngộ chăng?&quot; V&agrave; n&agrave;y Aggivessana, tiếp theo &yacute; niệm ấy, &yacute; thức n&agrave;y khởi l&ecirc;n nơi Ta: &quot;Đ&acirc;y l&agrave; đạo lộ đưa đến gi&aacute;c ngộ.&quot; N&agrave;y Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: &quot;Ta c&oacute; sợ chăng lạc thụ n&agrave;y, một lạc thọ li dục, li ph&aacute;p bất thiện?&quot; N&agrave;y Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: &quot;Ta kh&ocirc;ng sợ lạc thụ n&agrave;y, một lạc thọ li dục, li ph&aacute;p bất thiện.&quot;</div>
<div>Đạt tới gi&aacute;c ngộ</div>
<div>Sau 5 năm tu khổ hạnh kh&ocirc;ng đạt kết quả, Siddhārtha quyết định ăn uống b&igrave;nh thường trở lại, đến Gi&aacute;c Th&agrave;nh. Siddhārtha thường đến bờ s&ocirc;ng Nairanjana (Ni-li&ecirc;n-thiền, hiện nay l&agrave; s&ocirc;ng Phalgu) ngồi thiền định tr&ecirc;n b&atilde;i c&aacute;t. Một h&ocirc;m, c&oacute; hai c&ocirc; b&eacute; chăn b&ograve; t&ecirc;n Nanda v&agrave; Bala đang dắt b&ograve; xuống s&ocirc;ng tắm th&igrave; thấy Siddhārtha đang ngồi thiền định, họ sanh l&ograve;ng k&iacute;nh mến liền tự tay vắt lấy sữa b&ograve;, nấu ch&iacute;n rồi d&acirc;ng l&ecirc;n. Siddhārtha ăn xong cảm thấy th&acirc;n thể khoẻ mạnh.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>&ETH;ến ng&agrave;y thứ 49, Siddhārtha ngồi thiền định dưới gốc c&acirc;y cổ thụ Ni-c&acirc;u-đ&agrave; (c&aacute;ch c&acirc;y Bồ-đề khoảng 150m về hướng đ&ocirc;ng), sắp đi khất thực, th&igrave; c&oacute; hai chị em n&agrave;ng Sujata (Tu-X&agrave;-Đề), con &ocirc;ng trưởng l&agrave;ng Senani, mang b&aacute;t ch&aacute;o sữa (kheer) đến c&uacute;ng vị Thần gốc c&acirc;y để tạ ơn. Khi thấy Siddhārtha đang tĩnh tọa, hai n&agrave;ng đặt b&aacute;t ch&aacute;o sữa bằng v&agrave;ng trước mặt, cung k&iacute;nh đảnh lễ rồi ra về. Sau khi ăn xong b&aacute;t ch&aacute;o sữa, Siddhārtha thấy cơ thể khoẻ mạnh lạ thường n&ecirc;n kh&ocirc;ng đi khất thực m&agrave; xuống s&ocirc;ng Nairanjana tắm, t&acirc;m trạng &ocirc;ng v&ocirc; c&ugrave;ng phấn chấn, cảm thấy sắp đạt th&agrave;nh tựu vi&ecirc;n m&atilde;n.p</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Tương truyền rằng sau khi rửa b&aacute;t xong, &ocirc;ng để c&aacute;i b&aacute;t bằng v&agrave;ng tr&ecirc;n d&ograve;ng nước v&agrave; nguyện rằng: &quot;Nếu h&ocirc;m nay ta được chứng quả th&agrave;nh Phật, th&igrave; nguyện cho c&aacute;i b&aacute;t nầy nổi tr&ecirc;n mặt nước v&agrave; tr&ocirc;i ngược lại d&ograve;ng s&ocirc;ng&quot;. Quả nhi&ecirc;n c&aacute;i b&aacute;t nổi tr&ecirc;n mặt nước v&agrave; tr&ocirc;i ngược lại d&ograve;ng s&ocirc;ng 80 sải tay, đến khi gặp phải một xo&aacute;y nước mạnh th&igrave; ch&igrave;m xuống đ&aacute;y s&ocirc;ng, đ&uacute;ng nơi c&oacute; 3 chiếc b&aacute;t v&agrave;ng của 3 vị Phật đắc đạo trước Siddhārtha trong Hiền kiếp n&agrave;y (Phật C&acirc;u Lưu T&ocirc;n, Phật C&acirc;u Na H&agrave;m M&acirc;u Ni, Phật Ca Diếp)</div>
<div>Sau đ&oacute;, Siddhārtha đi trở l&ecirc;n bờ, đến cội Bồ-đề ở Bodh Gaya (Bồ-đề Đạo Tr&agrave;ng) v&agrave; nguyện sẽ nhập định kh&ocirc;ng rời chỗ ngồi cho đến l&uacute;c t&igrave;m ra nguy&ecirc;n nh&acirc;n v&agrave; cơ chế của Khổ. Trước khi ngồi, &ocirc;ng thầm nghĩ l&agrave;m thế n&agrave;o c&oacute; một t&ograve;a ngồi cho y&ecirc;n tĩnh, trang nghi&ecirc;m. Bỗng thấy một em b&eacute; t&ecirc;n l&agrave; Sotthiya Svastika (C&aacute;t-tường) g&aacute;nh cỏ đi ngang qua đ&oacute;, &ocirc;ng gọi lại hỏi xin một mớ cỏ để l&agrave;m t&ograve;a ngồi. Em b&eacute; cung k&iacute;nh d&acirc;ng &ocirc;ng s&aacute;u b&oacute; cỏ sắc (kusha) mềm mại v&agrave; c&oacute; hương thơm. &Ocirc;ng xấp cỏ th&agrave;nh tọa cụ v&agrave; bồ-đo&agrave;n, ngồi kiết gi&agrave;, lưng thẳng đứng hướng về ph&iacute;a gốc c&acirc;y, mặt hơi c&uacute;i xuống nh&igrave;n về hướng đ&ocirc;ng, ph&iacute;a bờ s&ocirc;ng Nairanjana.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Đ&ecirc;m h&ocirc;m đ&oacute;, Siddhārtha bắt đầu thực h&agrave;nh c&aacute;c ph&aacute;p thiền định. Cuối c&ugrave;ng, &ocirc;ng đạt Diệt-Thọ-Tưởng định (Nirodha-samapatti), tỏa ra uy năng chiếu khắp Tam giới (Dục giới, Sắc giới, V&ocirc; sắc giới). Ma vương Mara (Ba-tuần - vua c&otilde;i trời Tha H&oacute;a Tự Tại) kh&ocirc;ng muốn &ocirc;ng đắc đạo, đ&atilde; quấy nhiễu bằng nhiều phương thức, nhưng cuối c&ugrave;ng đều thất bại. Ba c&ocirc; con g&aacute;i của ma vương t&ecirc;n l&agrave; Tanhā (&Aacute;i Dục), Aratī (Bất M&atilde;n) v&agrave; Ragā (Tham Vọng) h&oacute;a ra ba n&agrave;ng ti&ecirc;n tuyệt đẹp để quyến rũ, nhưng cũng chịu thất bại.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Sau khi h&agrave;ng phục ma vương xong, Siddhārtha tiếp-tục nhập Diệt-Thọ-Tưởng định v&agrave; bắt đầu chứng đắc c&aacute;c đạo quả:</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Tận diệt c&aacute;c vi-tế phiền-n&atilde;o (Kammavasa) c&ograve;n ẩn n&aacute;u trong t&acirc;m l&agrave;m nghiệp nh&acirc;n cho Sinh-Tử Lu&acirc;n-Hồi (Samsara). &ETH;ến canh một đ&ecirc;m đ&oacute;, &ocirc;ng chứng T&uacute;c-Mạng-Minh (Pubbe-nivasanussati-nana), biết r&otilde; tất cả c&aacute;c tiền kiếp của &ocirc;ng (ở thời đại n&agrave;o, t&ecirc;n g&igrave;, sanh trưởng thế n&agrave;o, sinh sống ra sao, vui th&iacute;ch v&agrave; đau khổ thế n&agrave;o, tạo nghiệp g&igrave;, chết thế n&agrave;o, rồi t&aacute;i sinh thế n&agrave;o...)</div>
<div>Tận diệt c&aacute;c vi-tế v&ocirc;-minh (Avidyasava). &ETH;ến canh ba, &ocirc;ng chứng Thi&ecirc;n-Nh&atilde;n-Minh (Cutupapata-nana), biết r&otilde; tất cả sự biến chuyển của vạn vật qua c&aacute;c giai-đoạn th&agrave;nh, trụ, hoại, kh&ocirc;ng; v&agrave; biết r&otilde; tất cả ch&uacute;ng sanh (ở thời đại n&agrave;o, t&ecirc;n g&igrave;, sanh trưởng thế n&agrave;o, sinh sống ra sao, vui th&iacute;ch v&agrave; đau khổ thế n&agrave;o, tạo nghiệp g&igrave;, chết c&aacute;ch n&agrave;o, rồi t&aacute;i sinh thế n&agrave;o...) &Ocirc;ng biết r&otilde; tất cả nh&acirc;n duy&ecirc;n nghiệp b&aacute;o của ch&uacute;ng sinh, từ đ&oacute; suy ra luật Nh&acirc;n-Quả v&agrave; Lu&acirc;n-Hồi.</div>
<div>T&igrave;m ra phương c&aacute;ch gi&uacute;p ch&uacute;ng sinh chấm dứt phiền-n&atilde;o v&agrave; v&ocirc;-minh, đạt đến gi&aacute;c ngộ ho&agrave;n to&agrave;n, tho&aacute;t ra khỏi v&ograve;ng Sinh-Tử Lu&acirc;n-Hồi. &ETH;ến canh năm, &ocirc;ng chứng Lậu-Tận-Minh (Asavakkhaya-nana): Do đ&atilde; biết r&otilde; tất cả c&aacute;c tiền kiếp của ch&iacute;nh bản th&acirc;n m&igrave;nh v&agrave; của mỗi ch&uacute;ng sinh, n&ecirc;n &ocirc;ng nhận thấy r&otilde;-r&agrave;ng đ&acirc;u l&agrave; khổ, đ&acirc;u l&agrave; nguy&ecirc;n nh&acirc;n của khổ, đ&acirc;u l&agrave; hạnh ph&uacute;c ch&acirc;n-thật vĩnh-cửu v&agrave; l&agrave;m thế n&agrave;o để đạt được n&oacute;. &Ocirc;ng đ&atilde; t&igrave;m ra Tứ Th&aacute;nh Đế (Khổ, Tập, Diệt, &ETH;ạo).</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Theo sử Phật gi&aacute;o, đ&oacute; l&agrave; ng&agrave;y m&ugrave;ng 8 th&aacute;ng chạp &acirc;m lịch năm 589 TCN). Ở tuổi 35, Siddhārtha đ&atilde; đạt tới gi&aacute;c ngộ, trở th&agrave;nh Phật to&agrave;n gi&aacute;c, l&agrave; bậc anuttara samma sambodhi (V&ocirc; thượng Ch&aacute;nh đẳng Ch&aacute;nh gi&aacute;c), l&agrave; đức Phật Shakyamuni (Th&iacute;ch-ca M&acirc;u-ni) với Thập hiệu:</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Như Lai (tathāgata), l&agrave; &quot;Người đ&atilde; đến như thế&quot; hoặc &quot;Người đ&atilde; đến từ c&otilde;i Ch&acirc;n như&quot;; tuệ gi&aacute;c của Đức Phật như Mặt Trời soi s&aacute;ng khắp thế gian, x&oacute;a tan đ&ecirc;m tối v&ocirc; minh.</div>
<div>Ứng C&uacute;ng (arahant), dịch nghĩa l&agrave; A La H&aacute;n, l&agrave; &quot;Người đ&aacute;ng được c&uacute;ng dường&quot;, đ&aacute;ng được t&ocirc;n k&iacute;nh.</div>
<div>Ch&iacute;nh Biến Tri&shy; (samyaksaṃbuddha), dịch theo &acirc;m l&agrave; Tam-miệu-tam-phật-đ&agrave;, l&agrave; &quot;Người hiểu biết đ&uacute;ng tất cả c&aacute;c ph&aacute;p&quot;.</div>
<div>Minh Hạnh T&uacute;c (vidyācaraṇasaṃpanna), nghĩa l&agrave; &quot;Người c&oacute; đủ tr&iacute; huệ v&agrave; đức hạnh&quot;, tức l&agrave; c&oacute; đầy đủ tam minh (T&uacute;c Mạng Minh, Thi&ecirc;n Nh&atilde;n Minh, Lậu Tận Minh) v&agrave; ngũ hạnh (Th&aacute;nh Hạnh, Phạm Hạnh, Thi&ecirc;n Hạnh, Anh Nhi Hạnh, Bệnh Hạnh).</div>
<div>Thiện Thệ (sugata), l&agrave; &quot;Người đ&atilde; đi một c&aacute;ch tốt đẹp&quot;</div>
<div>Thế Gian Giải (lokavid), l&agrave; &quot;Người đ&atilde; thấu hiểu thế giới&quot;</div>
<div>V&ocirc; Thượng sĩ (anuttarapuruṣa), l&agrave; &quot;bậc tu h&agrave;nh tối cao, kh&ocirc;ng ai vượt qua&quot;</div>
<div>Điều Ngự Trượng Phu (puruṣadamyasārathi), nghĩa l&agrave; &quot;Người đ&atilde; chế ngự được bản ng&atilde; v&agrave; nh&acirc;n loại&quot;, c&oacute; khả năng điều phục những người hiền v&agrave; ngự phục những kẻ &aacute;c theo về ch&iacute;nh đạo.</div>
<div>Thi&ecirc;n Nh&acirc;n Sư (devamanuṣyānāṃ śāstṛ), l&agrave; &quot;Bậc thầy của c&otilde;i người v&agrave; c&otilde;i trời&quot;</div>
<div>Thế T&ocirc;n (buddhalokanātha, buddhalokajyeṣṭha, bhagavān), l&agrave; &quot;Bậc gi&aacute;c ngộ được thế gian t&ocirc;n k&iacute;nh&quot;</div>
<div>Từ thời điểm đ&oacute;, Siddhārtha biết m&igrave;nh l&agrave; Phật, l&agrave; một bậc Gi&aacute;c ngộ, v&agrave; biết rằng m&igrave;nh sẽ kh&ocirc;ng c&ograve;n t&aacute;i sinh một lần n&agrave;o nữa. Kinh nghiệm gi&aacute;c ngộ được ghi lại như sau trong kinh s&aacute;ch theo ch&iacute;nh lời của Siddhārtha như sau[10]:</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>&quot;... Sau khi ho&agrave;n lại sinh lực (sau khi tu khổ hạnh v&ocirc; &iacute;ch), ta ch&uacute; t&acirc;m giải tho&aacute;t khỏi những tư tưởng tham &aacute;i, bất thiện v&agrave; đạt được sơ thiền, sau đ&oacute; nhị thiền, tam thiền v&agrave; tứ thiền, nhưng những cảm gi&aacute;c hỉ lạc n&agrave;y kh&ocirc;ng để lại dấu vết g&igrave; trong t&acirc;m ta.</div>
<div>Khi t&acirc;m ta được an tịnh, thanh lọc, kh&ocirc;ng bị dục vọng cấu uế, nhạy b&eacute;n, chắc chắn, bất động, ta hướng n&oacute; về những k&yacute; ức v&agrave; nhận thức về c&aacute;c kiếp trước. Ta nhớ lại nhiều tiền kiếp, một, hai, ba, bốn, năm,..., trăm ng&agrave;n kiếp trước, nhớ những chu k&igrave; của thế giới. 'Nơi đ&oacute; ta đ&atilde; sống, t&ecirc;n của ta đ&atilde; như thế, gia đ&igrave;nh của ta l&agrave; như thế, nghề nghiệp của ta, giai cấp x&atilde; hội của ta... Ta đ&atilde; chết như vầy...'. Sự hiểu biết (sa. vidyā, pi. vijjā) đầu ti&ecirc;n n&agrave;y ta đ&atilde; đạt được trong canh đầu [11]...</div>
<div>Sau đ&oacute; ta ch&uacute; t&acirc;m đến sự sinh th&agrave;nh v&agrave; hoại diệt của ch&uacute;ng sinh. Với con mắt của chư thi&ecirc;n, trong s&aacute;ng, si&ecirc;u việt mọi giới hạn nh&acirc;n thế, ta thấy ch&uacute;ng sinh h&igrave;nh th&agrave;nh v&agrave; ti&ecirc;u hoại,...ch&uacute;ng sinh t&aacute;i sinh theo nghiệp lực. Ta nhận ra rằng 'Ch&uacute;ng sinh tạo nghiệp bất thiện qua ba ải th&acirc;n khẩu &yacute; đều ch&igrave;m đắm sau khi chết, t&aacute;i sinh trong đoạ xứ, địa ngục. C&aacute;c ch&uacute;ng sinh n&agrave;o tạo thiện nghiệp bằng th&acirc;n khẩu &yacute; được t&aacute;i sinh trong thiện đạo, sau khi chết được l&ecirc;n c&otilde;i thi&ecirc;n'... Sự hiểu biết thứ hai n&agrave;y ta đ&atilde; đạt được trong canh hai [12].</div>
<div>Sau đ&oacute; ta ch&uacute; t&acirc;m nhận thức về sự ti&ecirc;u diệt c&aacute;c lậu hoặc (漏, sa. āsrava, pi. āsava) v&agrave; nh&igrave;n nhận như thật: 'Đ&acirc;y l&agrave; khổ, đ&acirc;y l&agrave; nguy&ecirc;n nh&acirc;n của khổ, đ&acirc;y l&agrave; phương ph&aacute;p ti&ecirc;u diệt khổ, đ&acirc;y l&agrave; con đường ti&ecirc;u diệt khổ', v&agrave; khi ta nhận thức được điều n&agrave;y, t&acirc;m ta tho&aacute;t khỏi dục vọng, ham muốn tồn tại, v&ocirc; minh. Ta tự hiểu ch&acirc;n l&yacute; 'T&aacute;i sinh ta đ&atilde; đoạn, cuộc sống tu tập của ta đ&atilde; ho&agrave;n tất, ta đ&atilde; ho&agrave;n th&agrave;nh những g&igrave; phải l&agrave;m. Cuộc sống (khổ đau) n&agrave;y ta đ&atilde; vượt qua'... Sự hiểu biết thứ ba n&agrave;y ta đ&atilde; đạt được trong canh ba [13]...&quot;.</div>
<div>Siddhārtha l&uacute;c đ&oacute; biết rằng kinh nghiệm gi&aacute;c ngộ của m&igrave;nh kh&ocirc;ng thể d&ugrave;ng ng&ocirc;n từ hay bất cứ một c&aacute;ch n&agrave;o kh&aacute;c để truyền đạt, cũng như &ocirc;ng thấy con người đ&atilde; bị &aacute;p đảo bởi v&ocirc; minh, tham lam v&agrave; th&ugrave; hận n&ecirc;n họ rất kh&oacute; c&oacute; thể nhận ra &quot;con đường gi&aacute;c ngộ&quot;, vốn rất s&acirc;u sắc v&agrave; kh&oacute; nắm bắt. Siddhārtha nghĩ rằng: &quot;Gi&aacute;o ph&aacute;p m&agrave; Ta đ&atilde; chứng ngộ quả thật th&acirc;m diệu, kh&oacute; nhận thức, kh&oacute; l&atilde;nh hội, vắng lặng, cao si&ecirc;u, kh&ocirc;ng nằm trong phạm vi l&yacute; luận, rất tế nhị, chỉ c&oacute; bậc hiền th&aacute;nh mới thấu hiểu. Nếu Như Lai truyền dạy gi&aacute;o ph&aacute;p ấy th&igrave; kẻ kh&aacute;c sẽ kh&ocirc;ng hiểu được. Thật ho&agrave;i c&ocirc;ng! Người c&ograve;n mang nặng tham &aacute;i v&agrave; s&acirc;n hận kh&ocirc;ng dễ g&igrave; thấu triệt. Người tham &aacute;i ch&igrave;m đắm trong đ&ecirc;m tối, kh&ocirc;ng thấy được gi&aacute;o ph&aacute;p, v&igrave; bị tham &aacute;i bao phủ như đ&aacute;m m&acirc;y đen kịch. Gi&aacute;o Ph&aacute;p đi ngược d&ograve;ng đời, s&acirc;u k&iacute;n, th&acirc;m diệu, kh&oacute; nhận thức v&agrave; rất tế nhị&quot;. N&ecirc;n &ocirc;ng tiếp tục y&ecirc;n lặng ngồi qu&aacute;n chiếu t&acirc;m ch&uacute;ng sinh dưới gốc c&acirc;y Bồ-đề một thời gian. Sau đ&oacute;, c&oacute; một vị Phạm Thi&ecirc;n l&agrave; Sahampati đ&atilde; thỉnh cầu Siddhārtha hoằng dương ch&aacute;nh ph&aacute;p (trong thời xa xưa, tiền kiếp của vị Phạm Thi&ecirc;n n&agrave;y l&agrave; bạn của Jotipala - tiền kiếp của Siddhārtha v&agrave;o đời Phật Ca Diếp). Với l&ograve;ng thương y&ecirc;u ch&uacute;ng sinh, &ocirc;ng chấm dứt sự y&ecirc;n lặng v&agrave; quyết định chuyển Ph&aacute;p Lu&acirc;n, dựa v&agrave;o căn cơ của ch&uacute;ng sinh để thuyết Ph&aacute;p cứu độ. Từ đ&oacute; &ocirc;ng c&oacute; danh hiệu Shakyamuni (Th&iacute;ch-ca M&acirc;u-ni) &mdash; &quot;Tr&iacute; giả của d&ograve;ng d&otilde;i Th&iacute;ch-ca&quot;.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Th&agrave;nh lập tăng đo&agrave;n v&agrave; truyền giảng gi&aacute;o l&yacute;</div>
<div>Xem th&ecirc;m: Trapusa v&agrave; Bahalika, Thập đại đệ tử</div>
<div>49 ng&agrave;y sau khi đắc đạo, Phật chỉ thiền định, kh&ocirc;ng ăn uống. Đến ng&agrave;y từ 49, c&oacute; hai thương gia người Miến Điện t&ecirc;n Tapassu v&agrave; Bhallika từ Ukkala (hiện nay l&agrave; Orissa) đến. Hai thương gia sửa soạn bột rang v&agrave; mật ong rồi đến trước Phật rồi cung k&iacute;nh d&acirc;ng l&ecirc;n. Phật nhận l&atilde;nh rồi khuy&ecirc;n 2 thương gia quy y Phật v&agrave; quy y Ph&aacute;p, thọ tr&igrave; năm giới để được phước b&aacute;o l&acirc;u d&agrave;i. Hai thương gia đồng &yacute;, xin Phật thu nhận v&agrave;o h&agrave;ng thiện t&iacute;n (Upāsaka, nam cư sĩ). Đ&oacute; l&agrave; hai thiện t&iacute;n đầu ti&ecirc;n đ&atilde; quy y Nhị Bảo (Phật v&agrave; Ph&aacute;p, khi đ&oacute; chưa c&oacute; Tăng). Sau khi đ&atilde; được Đức Phật ban ph&aacute;p quy y v&agrave; truyền năm giới (kh&ocirc;ng s&aacute;t sanh, kh&ocirc;ng trộm cắp, kh&ocirc;ng t&agrave; d&acirc;m, kh&ocirc;ng uống rượu, kh&ocirc;ng n&oacute;i dối), hai vị thương gia xin &ocirc;ng &iacute;t vật lưu niệm để lu&ocirc;n lu&ocirc;n tưởng nhớ đến &ocirc;ng. Đức Phật tặng cho hai vị 8 sợi t&oacute;c v&agrave; m&oacute;ng tay, rồi ban lời ti&ecirc;n tri: &quot;C&aacute;c &ocirc;ng vậy l&agrave; c&oacute; đại nh&acirc;n duy&ecirc;n. Mấy sợi t&oacute;c của Như Lai kh&ocirc;ng phải đơn giản. Sau n&agrave;y, l&uacute;c Như Lai nhập diệt rồi, ở xứ c&aacute;c &ocirc;ng sẽ thịnh h&agrave;nh gi&aacute;o ph&aacute;p diệt khổ nhiều ng&agrave;n năm&quot;. Hai vị cung k&iacute;nh nhận l&atilde;nh, lạy tạ rồi mang về Miến Điện x&acirc;y th&aacute;p thờ. Hiện nay, Phật gi&aacute;o l&agrave; quốc gi&aacute;o của Miến Điện, 8 sợi t&oacute;c bảo vật n&agrave;y vẫn c&ograve;n được giữ g&igrave;n cẩn thận trong bảo th&aacute;p của ch&ugrave;a Shwedagon tại thủ đ&ocirc; Rangoon (Ngưỡng Quang) của Miến Điện, được người Myanmar xem l&agrave; quốc bảo.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Sau khi gi&aacute;c ngộ, Phật c&oacute; &yacute; định gặp 2 vị thầy cũ của m&igrave;nh l&agrave; Alara Kalama v&agrave; Uddaka Ramaputta để truyền đạo, bởi 2 người đều l&agrave; bậc tu sĩ đ&atilde; đạt cảnh giới thiền rất cao, kh&ocirc;ng c&ograve;n bị che mắt bởi dục lạc. Nhưng cả hai vị đều đ&atilde; qua đời c&aacute;ch đ&oacute; &iacute;t l&acirc;u.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div style="text-align: center;"><img src="http://tranhxodua.cwe.vn/472584D2003B40A0/8D8C0F32DE00E1054725851F00187BDE/$File/tranh-xo-dua-duc-phat-ngoi-duoi-coi-bo-de-cung-chu-ty-kheo.jpg"></div>
<div style="text-align: center;"><i>Tranh vẽ cảnh Tất-đạt-đa giảng đạo cho năm anh em Kiều Trần Như. Đ&acirc;y l&agrave; 5 vị tỳ kheo đầu ti&ecirc;n của tăng đo&agrave;n Phật gi&aacute;o</i></div>
<div>&Ocirc;ng quyết định tới gặp năm người bạn đồng tu xưa kia của m&igrave;nh đang ở tại vườn Nai gần Benar&egrave;s v&agrave; truyền dạy gi&aacute;o l&yacute; của m&igrave;nh cho họ. Tất cả năm vị sau đ&oacute; đều trở th&agrave;nh A-la-h&aacute;n. Sự kiện n&agrave;y diễn ra v&agrave;o một ng&agrave;y trăng rằm, đ&uacute;ng hai th&aacute;ng sau khi Tất-đạt-đa th&agrave;nh đạo. Trong b&agrave;i thuyết ph&aacute;p đầu ti&ecirc;n n&agrave;y, &ocirc;ng đề xướng con đường Trung đạo, một sự b&aacute;c bỏ đối với hai th&aacute;i cực kh&aacute;c nhau của c&aacute;c học thuyết của Ấn Độ thời đ&oacute;:[14]</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>&ldquo;<span style="white-space:pre"> </span>N&agrave;y c&aacute;c tỳ khưu, đ&acirc;y l&agrave; hai cực đoan m&agrave; bậc xuất gia kh&ocirc;ng n&ecirc;n thực h&agrave;nh: Đ&acirc;y l&agrave; sự say đắm về dục lạc trong c&aacute;c dục, k&eacute;m cỏi, th&ocirc; thiển, tầm thường, kh&ocirc;ng cao thượng, kh&ocirc;ng đem lại lợi &iacute;ch, v&agrave; đ&acirc;y l&agrave; sự gắn b&oacute; với việc h&agrave;nh hạ bản th&acirc;n, đau khổ, kh&ocirc;ng cao thượng, kh&ocirc;ng đem lại lợi &iacute;ch. N&agrave;y c&aacute;c tỳ khưu, sau khi kh&ocirc;ng tiếp cận cả hai cực đoan ấy, lối thực h&agrave;nh trung h&ograve;a đ&atilde; được đức Như lai tự m&igrave;nh gi&aacute;c ngộ khiến cho mắt được thấy, khiến cho tr&iacute; được s&aacute;ng, dẫn đến tịch tịnh, thắng tr&iacute;, ho&agrave;n to&agrave;n gi&aacute;c ngộ, Niết B&agrave;n. N&agrave;y c&aacute;c tỳ khưu, lối thực h&agrave;nh trung h&ograve;a ấy đ&atilde; được đức Như lai tự m&igrave;nh gi&aacute;c ngộ khiến cho mắt được thấy, khiến cho tr&iacute; được s&aacute;ng, dẫn đến tịch tịnh, thắng tr&iacute;, ho&agrave;n to&agrave;n gi&aacute;c ngộ, Niết B&agrave;n l&agrave; thế n&agrave;o? Đ&oacute; ch&iacute;nh l&agrave; Th&aacute;nh Đạo T&aacute;m Chi Phần tức l&agrave; sự hiểu biết ch&acirc;n ch&aacute;nh, suy nghĩ ch&acirc;n ch&aacute;nh, n&oacute;i lời ch&acirc;n ch&aacute;nh, nghề nghiệp ch&acirc;n ch&aacute;nh, nu&ocirc;i mạng ch&acirc;n ch&aacute;nh, tinh tấn ch&acirc;n ch&aacute;nh, ghi nhớ ch&acirc;n ch&aacute;nh, định t&acirc;m ch&acirc;n ch&aacute;nh...<span style="white-space:pre"> </span>&rdquo;</div>
<div>&mdash;&thinsp;Phật Th&iacute;ch-ca</div>
<div>&Ocirc;ng bắt đầu giảng ph&aacute;p bằng c&aacute;ch tr&igrave;nh b&agrave;y con đường dẫn đến kinh nghiệm gi&aacute;c ngộ v&agrave; giải tho&aacute;t. Tr&ecirc;n cơ sở kinh nghiệm gi&aacute;c ngộ của m&igrave;nh, &ocirc;ng đ&atilde; giảng Tứ diệu đế, B&aacute;t ch&iacute;nh đạo, V&ocirc; ng&atilde;, V&ocirc; thường, Lu&acirc;n hồi, Duy&ecirc;n khởi, quy luật Nh&acirc;n quả (Nghiệp) v&agrave; nhiều b&agrave;i ph&aacute;p kh&aacute;c mở rộng ph&ugrave; hợp với căn cơ của nhiều người. Tại vườn Lộc Uyển ở Sarnath gần Ba-la-nại (Benares hay c&ograve;n gọi l&agrave; Varanasi), &ocirc;ng bắt đầu những b&agrave;i giảng đầu ti&ecirc;n, gọi l&agrave; &quot;Chuyển Ph&aacute;p lu&acirc;n&quot;. &Ocirc;ng đi nhiều nơi, nhiều v&ugrave;ng miền ở lục địa Ấn Độ, giảng giải gi&aacute;o ph&aacute;p v&agrave; điều n&agrave;y diễn ra li&ecirc;n tục từ năm n&agrave;y qua năm kh&aacute;c.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>&Ocirc;ng hay lưu tr&uacute; tại Vương-x&aacute; (zh. 王舍城, sa. rājagṛha), X&aacute;-vệ (zh. 舍衛城, sa. sāvatthī) v&agrave; Phệ-x&aacute;-li (zh. 吠舍釐, sa. vaiśālī), sống bằng khất thực, kh&ocirc;ng nh&agrave; ở cố định. Th&ocirc;ng qua những lời dạy của m&igrave;nh về ch&acirc;n l&yacute; cuộc đời, Tất-đạt-đa đ&atilde; dần dần g&acirc;y dựng được một đội ngũ đệ tử lớn gồm 4 th&agrave;nh phần: tỳ-kheo (nam tu sĩ), tỳ-kheo-ni (nữ tu sĩ), ưu-b&agrave;-tắc (nam cư sĩ), ưu-b&agrave;-di (nữ cư sĩ). Trong h&agrave;ng đệ tử tại gia của &ocirc;ng c&oacute; những nh&acirc;n vật quyền thế như vua Tần-b&agrave;-sa-la (zh. 頻婆娑羅, sa. bimbisāra) v&agrave; vương hậu Vi-đề-hi (Vaideli) của xứ Ma-kiệt-đ&agrave;, vua Ba-tư-nặc v&agrave; vương hậu Mạt-lợi (Mallika) nước Kiều-t&aacute;t-la. Ch&iacute;nh Vua Tần-b&agrave;-sa-la đ&atilde; d&acirc;ng cung cho Tăng đo&agrave;n ng&ocirc;i tu viện đầu ti&ecirc;n trong lịch sử Phật gi&aacute;o, đ&oacute; l&agrave; Tịnh x&aacute; Tr&uacute;c L&acirc;m (Veluvana) tại kinh đ&ocirc; Vương-x&aacute;. Ngo&agrave;i ra trưởng giả Cấp C&ocirc; Độc, một thương gia gi&agrave;u c&oacute; ở kinh th&agrave;nh X&aacute;-vệ, cũng c&uacute;ng dường cho gi&aacute;o đo&agrave;n của Phật Th&iacute;ch-ca cũng được một ng&ocirc;i tịnh x&aacute; trong khu vườn của Th&aacute;i tử Kỳ-đ&agrave; tại X&aacute;-vệ, được kinh điển gọi l&agrave; tịnh x&aacute; Kỳ Vi&ecirc;n (Jetavana). Kinh Phật cho biết Cấp C&ocirc; Độc đ&atilde; l&oacute;t v&agrave;ng khắp s&acirc;n vườn để mua lại n&oacute; từ tay Th&aacute;i tử Kỳ-đ&agrave;, con trai quốc vương Ba-tư-nặc. C&aacute;c đệ tử quan trọng của &ocirc;ng l&agrave; A-nan-đ&agrave;, X&aacute;-lợi-phất, Mục-kiền-li&ecirc;n, Ma-ha-ca-diếp, A-na-luật v&agrave; Ph&uacute;-l&acirc;u-na. Cũng trong thời gian n&agrave;y, đo&agrave;n Tỉ-kh&acirc;u-ni (sa. bhikṣuṇī) được th&agrave;nh lập do di mẫu của Tất-đạt-đa l&agrave; b&agrave; Ma-ha-ba-x&agrave;-ba-đề l&agrave;m ni trưởng.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Cuộc đời &ocirc;ng cũng gặp nhiều người xấu muốn &aacute;m hại. Trong số đ&oacute;, c&oacute; Đề-b&agrave;-đạt-đa l&agrave; người em họ, muốn gi&agrave;nh quyền thống lĩnh Tăng-gi&agrave;, n&ecirc;n rắp t&acirc;m t&igrave;m c&aacute;ch giết hại &ocirc;ng nhiều lần nhưng kh&ocirc;ng th&agrave;nh. Tuy thế Đề-b&agrave;-đạt-đa đ&atilde; chia rẽ được một số th&agrave;nh vi&ecirc;n khỏi Tăng-gi&agrave; ở Phệ-x&aacute;-li. Tất-đạt-đa đi con đường trung đạo v&agrave; t&ugrave;y thuận ch&uacute;ng sinh, ngược lại Đề-b&agrave;-đạt-đa chủ trương một cuộc sống khổ hạnh cực đoan.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Nhập Niết b&agrave;n</div>
<div>Trong kinh điển Pali, Thế T&ocirc;n Tất-đạt-đa Cồ-đ&agrave;m tại thế t&aacute;m mươi năm. Tuy trải qua suốt phần đời c&ograve;n lại - 45 năm đi giảng dạy (c&oacute; t&agrave;i liệu n&oacute;i l&agrave; 49 năm), nhưng &ocirc;ng lại tuy&ecirc;n bố Đối với ch&acirc;n l&yacute;, Như Lai chưa từng n&oacute;i lời n&agrave;o, &Yacute; nghĩa của c&acirc;u n&agrave;y: những g&igrave; Như Lai gi&aacute;c ngộ vốn đ&atilde; l&agrave; ch&acirc;n l&yacute; từ mu&ocirc;n thuở, tồn tại vĩnh cửu trong khắp c&aacute;c c&otilde;i thế gian v&agrave; vũ trụ, d&ugrave; c&oacute; Phật tại thế hay kh&ocirc;ng, d&ugrave; ch&uacute;ng sinh c&oacute; biết v&agrave; tin hay kh&ocirc;ng th&igrave; ch&acirc;n l&yacute; đ&oacute; vẫn tồn tại v&agrave; chi phối vạn vật. Ch&acirc;n l&yacute; đ&oacute; rất vi diệu, kh&ocirc;ng thể d&ugrave;ng lời n&oacute;i để diễn tả m&agrave; phải tự m&igrave;nh chứng đắc, những lời dạy của Như Lai chỉ l&agrave; phương tiện để gi&uacute;p người tu h&agrave;nh tự m&igrave;nh đạt tới ch&acirc;n l&yacute;.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Theo kinh Đại b&aacute;t-niết-b&agrave;n (pi. mahāparinibbāna-sutta), &ocirc;ng qua đời tại th&agrave;nh phố C&acirc;u-thi-na (zh. 拘尸那, sa. Kuṣinagara) của bộ tộc Malla v&agrave;o năm 544 trước C&ocirc;ng nguy&ecirc;n (một số nh&agrave; khảo cổ th&igrave; cho rằng đ&oacute; l&agrave; năm 486 hay 483 trước C&ocirc;ng nguy&ecirc;n), địa điểm n&agrave;y được c&aacute;c nh&agrave; khảo cổ nhận dạng l&agrave; Kasia ở quận Deoria của xứ Utta Pradesh ng&agrave;y nay. Trước đ&oacute; sức khoẻ của &ocirc;ng đ&atilde; trở n&ecirc;n rất yếu sau khi d&ugrave;ng bữa c&uacute;ng dường tại nh&agrave; th&iacute; chủ Thuần-đ&agrave; (zh. 純陀, pi. cunda), tuy nhi&ecirc;n sau đ&oacute; &ocirc;ng c&oacute; nhấn mạnh cho t&ocirc;n giả A-nan-đ&agrave; hiểu l&agrave; Tăng ch&uacute;ng kh&ocirc;ng n&ecirc;n khiển tr&aacute;ch, người thợ r&egrave;n đ&oacute; đ&atilde; c&oacute; thiện &yacute; tối thượng.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Trước khi qua đời, Tất-đạt-đa tạo điều kiện cho c&aacute;c tỳ-kheo cơ hội cuối c&ugrave;ng để chất vấn hay hỏi đ&aacute;p nếu như c&oacute; những vấn đề hay những điểm n&agrave;o c&ograve;n chưa s&aacute;ng tỏ c&oacute; thể đưa đến c&aacute;c kiến giải kh&aacute;c nhau về sau, tuy nhi&ecirc;n c&aacute;c vị n&agrave;y đ&atilde; im lặng. Lời dạy cuối c&ugrave;ng của &ocirc;ng: &quot;Tất cả c&aacute;c ph&aacute;p hữu vi đều v&ocirc; thường, chịu biến hoại, h&atilde;y tinh tấn tu học (để đạt giải tho&aacute;t)!&quot;.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Theo c&aacute;c Phật tử, &ocirc;ng đ&atilde; nhập Niết-b&agrave;n th&ocirc;ng qua c&aacute;c mức thiền định, một trạng th&aacute;i giải tho&aacute;t ho&agrave;n to&agrave;n khổ đau của cuộc sống.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Trưởng l&atilde;o tỷ-kheo Anuruddha (A-nan-luật-đ&agrave;) n&oacute;i ph&aacute;p thoại ca ngợi c&ocirc;ng hạnh của &ETH;ức Phật Gautama, rồi kết luận:</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Thế T&ocirc;n cũng l&agrave; một con người như ch&uacute;ng ta, nhưng nhờ ph&aacute;t đại nguyện cứu khổ ch&uacute;ng sanh, rồi dũng m&atilde;nh tinh tấn tu B&aacute;t Ch&aacute;nh &ETH;ạo, thực tập thiền qu&aacute;n m&agrave; trở th&agrave;nh bậc &ETH;ại Gi&aacute;c, c&oacute; đầy đủ tr&iacute; huệ rộng lớn, đại h&ugrave;ng, đại lực, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, c&oacute; đầy đủ phương tiện thiện xảo chỉ dạy v&agrave; hướng dẫn ch&uacute;ng sanh hết m&ecirc; được ngộ, tho&aacute;t khổ được vui, biết phương ph&aacute;p tu tập để tự giải tho&aacute;t khỏi cảnh sanh tử lu&acirc;n hồi, v&agrave;o cảnh niết-b&agrave;n an lạc thanh tịnh. N&agrave;y c&aacute;c huynh đệ, để đền đ&aacute;p ơn Thế T&ocirc;n, ch&uacute;ng ta h&atilde;y nương theo lời gi&aacute;o huấn của Thế T&ocirc;n v&agrave; noi theo gương s&aacute;ng của Thế T&ocirc;n m&agrave; tinh tấn tu tập B&aacute;t Ch&aacute;nh &ETH;ạo, cố đạt cho kỳ được mục ti&ecirc;u giải tho&aacute;t.</div>
<div>Tương truyền rằng trong buổi tr&agrave; tỳ kim th&acirc;n Phật c&oacute; nhiều hiện tượng lạ xảy ra: hoa mạn đ&agrave; la bay đầy trời (do c&aacute;c chư thi&ecirc;n c&uacute;ng dường), v&agrave; người ta kh&ocirc;ng thể thắp ngọn lửa thi&ecirc;u x&aacute;c cho tới khi trưởng l&atilde;o Tỷ-kheo Maha Kassapa (một trong c&aacute;c vị học tr&ograve; Tối thắng của Phật) tới nơi để l&agrave;m lễ.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Mặc d&ugrave; cuộc đời Th&aacute;i tử Tất-đạt-đa c&oacute; nhiều huyền thoại bao phủ nhưng c&aacute;c nh&agrave; khảo cổ học v&agrave; nh&acirc;n chủng học - vốn hay c&oacute; nhiều ho&agrave;i nghi v&agrave; th&agrave;nh kiến - cũng đều nhất tr&iacute; c&ocirc;ng nhận &ocirc;ng l&agrave; một nh&acirc;n vật lịch sử c&oacute; thật v&agrave; l&agrave; người đ&atilde; th&agrave;nh lập ra Phật gi&aacute;o.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Di t&iacute;ch</div>
<div>X&aacute; lợi Phật</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>X&aacute; lợi t&oacute;c Phật thờ tại ch&ugrave;a Gangaramaya, Colombo, Sri lanka.</div>
<div>Sau khi qua đời, X&aacute; lợi của Tất-đạt-đa Cồ-đ&agrave;m được chia th&agrave;nh 8 phần, gồm: Xứ Magadha (Ma-kiệt-Đ&agrave;) x&acirc;y th&aacute;p thờ x&aacute; lợi Phật ở Rajagriha, xứ Vajji x&acirc;y th&aacute;p ở Vesali, xứ Sakya x&acirc;y th&aacute;p ở Mungali, xứ Koliya x&acirc;y th&aacute;p ở Ramagama, xứ Buliya x&acirc;y th&aacute;p ở Allakappa, vị B&agrave;-la-m&ocirc;n x&acirc;y th&aacute;p thờ ở Vethadipa, xứ Malla nhận hai phần x&aacute; lợi, x&acirc;y một th&aacute;p ở thủ đ&ocirc; Pava v&agrave; một th&aacute;p kh&aacute;c tại Kusinagar. Ri&ecirc;ng vị B&agrave;-la-m&ocirc;n Dona xin thỉnh c&aacute;i chậu v&agrave;ng d&ugrave;ng để chia x&aacute; lợi, đem về khu vườn nh&agrave; m&igrave;nh x&acirc;y th&aacute;p thờ. Sứ giả xứ Moriya đến trễ, xin thỉnh phần tro c&ograve;n lại về x&acirc;y th&aacute;p thờ tại thủ-đ&ocirc; Pipphalivana.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Nhiều thế kỷ sau đ&oacute;, vua Ashoka (A-s&ocirc;-ka) đ&atilde; tập hợp c&aacute;c x&aacute; lợi, cho x&acirc;y cất v&agrave; t&ocirc;n thờ th&agrave;nh 84.000 th&aacute;p.[15][16]</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Trước đ&acirc;y nhiều người kh&ocirc;ng phải t&iacute;n đồ Phật gi&aacute;o đ&atilde; kh&ocirc;ng tin l&agrave; c&oacute; x&aacute;-lợi Phật, họ cho đ&oacute; chỉ l&agrave; huyền thoại. M&atilde;i đến năm 1898, &ocirc;ng W. C. Pepp&eacute;, người Ph&aacute;p, tiến h&agrave;nh khảo cổ tại v&ugrave;ng Pīprāvā, ph&iacute;a Nam nước N&eacute;pal, đ&atilde; t&igrave;m thấy một c&aacute;i hộp bằng đ&aacute; kh&aacute; lớn, trong đ&oacute; c&oacute; chứa hai chiếc b&igrave;nh bằng đ&aacute; v&agrave; v&agrave;i dụng cụ bằng đ&aacute; kh&aacute;c như t&aacute;ch tr&agrave;. Hai b&igrave;nh đ&aacute; một lớn một nhỏ đều c&oacute; chứa những vi&ecirc;n x&aacute;-lợi. B&igrave;nh đ&aacute; nhỏ dạng h&igrave;nh cầu, chia th&agrave;nh hai phần thượng hạ. Nửa phần tr&ecirc;n c&oacute; h&igrave;nh tay cầm, khắc ni&ecirc;n đại của vua Ashoka v&agrave; nội dung của n&oacute; như sau: &ldquo;Đ&acirc;y l&agrave; x&aacute;-lợi của Đức Phật. Phần x&aacute;-lợi n&agrave;y do bộ tộc Śākya, nước Śrāvastī phụng thờ&rdquo;. Chiếc b&igrave;nh đ&atilde; chứng minh nội dung trong kinh Trường A-h&agrave;m v&agrave; rải r&aacute;c ở những kinh kh&aacute;c về việc ph&acirc;n chia x&aacute;-lợi của Phật th&agrave;nh 8 phần cho 8 quốc gia cổ đại Ấn Độ sau khi Phật nhập Niết-b&agrave;n ho&agrave;n to&agrave;n l&agrave; sự thật.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Kinh Phật</div>
<div>Sau khi Phật nhập diệt &iacute;t l&acirc;u, Thượng tọa Maha Ca Diếp đ&atilde; triệu tập 500 vị A-la-h&aacute;n họp tại động Sattapanni (động Thất Diệp, c&ograve;n gọi l&agrave; động Tất-b&aacute;t-la) ở Rajagriha để &ocirc;n tụng v&agrave; ghi nhớ tất cả những lời Phật dạy. Đ&oacute; ch&iacute;nh l&agrave; Đại hội kết tập kinh điển Phật gi&aacute;o lần thứ nhất.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Tranh khắc &quot;Qu&agrave; của Đất&quot;, thế kỷ 2 Gandhara. Cậu b&eacute; Jaya (tiền th&acirc;n kiếp trước của vua Ashoka), d&acirc;ng chiếc b&aacute;nh đất (m&agrave; cậu b&eacute; nghĩ l&agrave; thức ăn) l&ecirc;n Phật Th&iacute;ch-ca. Nhờ c&ocirc;ng đức c&uacute;ng dường cho Phật với l&ograve;ng ch&iacute; th&agrave;nh, Phật Th&iacute;ch-ca đ&atilde; ti&ecirc;n tri rằng trong kiếp sau, cậu sẽ l&agrave; vị vua thống lĩnh Ấn Độ v&agrave; lưu truyền Phật gi&aacute;o.</div>
<div>Khoảng 300 năm sau l&agrave; thời Asoka (A Dục) l&agrave; ho&agrave;ng đế của đế chế Mauryan, khoảng năm 240 TCN. Trước khi trở th&agrave;nh Phật tử, &ocirc;ng c&oacute; t&iacute;nh kh&iacute; rất hung bạo, đ&atilde; giết nhiều anh em của m&igrave;nh để cướp ng&ocirc;i vua cũng như đ&atilde; xua qu&acirc;n đ&aacute;nh chiếm nhiều l&atilde;nh thổ. Nhưng ngay sau đ&oacute; nhờ gặp được Sa di Nigrodha, &ocirc;ng theo Phật gi&aacute;o cải hối v&agrave; l&agrave;m rất nhiều điều thiện, chống lại bạo lực. Từ thời điểm đ&oacute;, vua A-dục, người đ&atilde; từng được mi&ecirc;u tả như l&agrave; &quot;A-dục &aacute;c vương&quot; (Chandashoka), bắt đầu được m&ocirc; tả như l&agrave; &quot;A-dục s&ugrave;ng đạo&quot; (Dharmashoka). &Ocirc;ng l&agrave; người c&oacute; c&ocirc;ng lớn khuyến kh&iacute;ch Phật gi&aacute;o, x&acirc;y dựng h&agrave;ng chục ng&agrave;n ch&ugrave;a chiền, bảo th&aacute;p Phật gi&aacute;o. Nhiều đo&agrave;n truyền gi&aacute;o đạo Phật đ&atilde; được &ocirc;ng t&agrave;i trợ v&agrave; cử đến khắp nơi, từ &Acirc;u sang &Aacute;, đến tận Hy Lạp, c&aacute;c nước tại Trung &Aacute;, Trung Đ&ocirc;ng, cũng như Trung Quốc, Đ&ocirc;ng Nam &Aacute;, Miến Điện v&agrave; Sri Lanka. Ngo&agrave;i ra, vua Asoka c&ograve;n l&agrave; người bảo trợ cho k&igrave; Kết tập kinh điển lần thứ III.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Phật gi&aacute;o ng&agrave;y nay ph&aacute;t triển mạnh ở Sri Lanka v&agrave; Đ&ocirc;ng &Aacute; (Th&aacute;i Lan, L&agrave;o, Campuchia, Myanmar, Trung Quốc, H&agrave;n Quốc, Nhật Bản, Đ&agrave;i Loan, Việt Nam, Singapore) v&agrave; bao gồm nhiều ph&acirc;n nh&aacute;nh nhỏ hơn. Mặc d&ugrave; ph&aacute;t triển chủ yếu ở ch&acirc;u &Aacute;, nhưng hiện nay Đạo Phật được t&igrave;m thấy ở khắp thế giới. Ước t&iacute;nh số người ch&iacute;nh thức theo đạo Phật (đ&atilde; l&agrave;m lễ Quy y Tam Bảo) v&agrave;o khoảng 350 triệu đến 700 triệu người, số người chưa l&agrave;m lễ Quy y Tam Bảo nhưng c&oacute; niềm tin v&agrave;o đạo Phật th&igrave; c&ograve;n đ&ocirc;ng hơn gấp mấy lần con số đ&oacute;.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>&ETH;ức Phật Th&iacute;ch-Ca M&acirc;u-Ni đ&atilde; nhập niết-b&agrave;n hơn 2.500 năm, nhưng c&aacute;c b&agrave;i kinh Phật c&ograve;n được chư tăng g&igrave;n giữ cẩn thận cho đến ng&agrave;y nay. D&ugrave; đạo Phật đ&atilde; bị hủy hoại ở Ấn Độ do sự tấn c&ocirc;ng của c&aacute;c t&ocirc;n gi&aacute;o kh&aacute;c, nhưng t&iacute;n đồ Phật gi&aacute;o đ&atilde; trải khắp c&aacute;c nước, đặc biệt l&agrave; ở Đ&ocirc;ng &Aacute;. Tam Tạng Ph&aacute;p Bảo gồm những lời dạy của Đức Phật vẫn c&ograve;n đ&oacute;, hiện được c&aacute;c chư tăng, t&iacute;n đồ lưu giữ v&agrave; truyền tụng ở khắp năm ch&acirc;u, bất kỳ ai mong muốn theo Đạo hoặc nghi&ecirc;n cứu gi&aacute;o l&yacute; đạo Phật đều c&oacute; thể dễ d&agrave;ng t&igrave;m đọc.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>C&aacute;c th&aacute;nh t&iacute;ch</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Đại th&aacute;p Gi&aacute;c Ngộ tại th&aacute;nh địa Bodh Gaya</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Gốc bồ đề tại Bodh Gaya n&agrave;y l&agrave; nơi Tất-đạt-đa Cồ-đ&agrave;m đ&atilde; ngồi thiền v&agrave; th&agrave;nh đạo.</div>
<div>Đối với t&iacute;n đồ Phật gi&aacute;o, c&oacute; 4 th&aacute;nh t&iacute;ch li&ecirc;n quan đến cuộc đời Phật Th&iacute;ch Ca. Bodh Gaya (tiếng Việt l&agrave; Bồ Đề Đạo Tr&agrave;ng), nơi Phật Th&iacute;ch Ca th&agrave;nh đạo l&agrave; nơi quan trọng nhất, ngo&agrave;i ra c&ograve;n 3 nơi kh&aacute;c đ&oacute; l&agrave;:</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Kushinagar: Đ&acirc;y l&agrave; nơi m&agrave; Phật nhập niết b&agrave;n. Qua c&aacute;c khai quật th&igrave; người ta đ&atilde; t&igrave;m thấy được c&aacute;c mảnh vỡ của c&aacute;c tượng phật v&agrave; c&aacute;c cột trụ m&agrave; vua Asoka đ&atilde; x&acirc;y dựng. Nơi n&agrave;y ng&agrave;y nay l&agrave; Kasia, thuộc về Deoria của bang Utta Pradesh.</div>
<div>L&acirc;m-tỳ-ni (Lumbini) - nơi Phật đản sinh. Trước đ&acirc;y người ta kh&ocirc;ng x&aacute;c định được địa danh n&agrave;y, nhiều người coi đ&acirc;y chỉ l&agrave; huyền thoại. M&atilde;i đến 1 th&aacute;ng 12 năm 1886, nh&agrave; khảo cổ người Đức Alois A. Fuhrer mới t&igrave;m thấy cột th&aacute;p của vua Asoka x&aacute;c nhận đ&acirc;y l&agrave; nơi ra đời của Phật Th&iacute;ch Ca M&acirc;u Ni.</div>
<div>Sarnath - nơi Phật thuyết ph&aacute;p lần đầu ti&ecirc;n. Di t&iacute;ch c&ograve;n s&oacute;t lại l&agrave; th&aacute;p Dhamekh được x&acirc;y v&agrave;o triều đại Gupta thế kỷ thứ 6 trước C&ocirc;ng nguy&ecirc;n. (Chữ Phạn &quot;dharmekh&quot; nghĩa l&agrave; ch&aacute;nh ph&aacute;p.)</div>
<div>Bodh Gaya l&agrave; tr&aacute;i tim của văn h&oacute;a Phật gi&aacute;o trong suốt h&agrave;ng thế kỷ cho đến khi n&oacute; bị người Hồi gi&aacute;o đ&aacute;nh chiếm v&agrave; t&agrave;n ph&aacute; v&agrave;o thế kỷ 12. Năm 1875, Vua Mindon Min của Miến Điện đ&atilde; đề nghị v&agrave; được sự đồng &yacute; của ch&iacute;nh phủ Ấn Độ v&agrave; gi&aacute;o hội Ấn gi&aacute;o Mahant để sửa sang lại ng&ocirc;i th&aacute;p Đại Gi&aacute;c bị hoang phế nhiều năm. Nhưng kỳ sửa chữa đầu ti&ecirc;n của người Miến Điện diễn ra kh&ocirc;ng đ&uacute;ng theo truyền thống n&ecirc;n ch&iacute;nh phủ Ấn Độ đ&atilde; quyết định bổ nhiệm &ocirc;ng J.D Beglar v&agrave;o năm 1880 tr&ugrave;ng tu lại ho&agrave;n to&agrave;n ng&ocirc;i th&aacute;p. Nhưng sau khi được kh&ocirc;i phục, ng&ocirc;i th&aacute;p Đại Gi&aacute;c v&agrave; v&ugrave;ng đất xung quanh vẫn tiếp tục thuộc về gi&aacute;o hội Ấn gi&aacute;o Mahant, họ chỉ giữ Th&aacute;nh T&iacute;ch với mục đ&iacute;ch hưởng lợi qua sự thăm viếng của phật tử chứ kh&ocirc;ng c&oacute; &yacute; muốn tu sửa hay cung k&iacute;nh. Sự vận động gi&agrave;nh lấy lại quyền điều h&agrave;nh tại khu vực Th&aacute;p Đại Gi&aacute;c bắt đầu v&agrave;o th&aacute;ng 1 năm 1891 khi đại sư Anagarika Dharmapala đến đảnh lễ th&aacute;nh địa n&agrave;y. &Ocirc;ng Dharmapala ghi trong nhật k&yacute; ng&agrave;y 21/1/1891 như sau: &quot;Tại ng&ocirc;i đền của &ocirc;ng Mahant hai b&ecirc;n cửa c&oacute; những tượng Đức Thế T&ocirc;n đang thiền định hay đang thuyết ph&aacute;p. &Ocirc;i! T&ocirc;n nghi&ecirc;m l&agrave;m sao ng&ocirc;i th&aacute;p qu&iacute; b&aacute;u n&agrave;y! Đức Thế T&ocirc;n ngồi tr&ecirc;n ph&aacute;p t&ograve;a v&agrave; sự t&ocirc;n nghi&ecirc;m tỏa khắp l&agrave;m cho phật tử ch&iacute; th&agrave;nh ph&aacute;t kh&oacute;c. &Ocirc;i sung sướng biết bao! Khi vầng tr&aacute;ng của t&ocirc;i chạm đến Kim Cương T&ograve;a, một &yacute; niệm ph&aacute;t ra rồi đ&aacute;nh mạnh v&agrave;o t&acirc;m tr&iacute; t&ocirc;i. &Yacute; niệm ấy bảo t&ocirc;i dừng lại đ&acirc;y v&agrave; g&igrave;n giữ th&aacute;nh t&iacute;ch t&ocirc;n nghi&ecirc;m nầy, t&ocirc;n nghi&ecirc;m đến nỗi kh&ocirc;ng g&igrave; tr&ecirc;n đời n&agrave;y s&aacute;nh bằng, v&igrave; đ&acirc;y l&agrave; chỗ m&agrave; dưới gốc Bồ Đề, Th&aacute;i tử Tất-đạt-đa đ&atilde; gi&aacute;c ngộ th&agrave;nh Phật.&quot;'</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>&Ocirc;ng Dharmapala từng bước ngăn chặn những việc l&agrave;m của ngoại đạo tại th&aacute;nh địa n&agrave;y v&agrave; đ&atilde; s&aacute;ng lập ra &quot;Hội Đại Gi&aacute;c Ngộ, Bồ-đề Đạo Tr&agrave;ng&quot; (The Buddha Gaya Mahabodhi Society) v&agrave;o ng&agrave;y 31 th&aacute;ng 5 năm 1891. Sau nhiều năm đấu tranh, vận động sự ủng hộ từ Phật tử c&aacute;c nước, năm 1952, ch&iacute;nh phủ Ấn Độ đ&atilde; th&agrave;nh lập một ủy ban điều h&agrave;nh quản l&yacute; khu vực Bồ-đề Đạo Tr&agrave;ng v&agrave; những di sản kh&aacute;c. Ủy ban n&agrave;y gồm c&oacute; 8 th&agrave;nh vi&ecirc;n, 4 vị Ấn gi&aacute;o v&agrave; 4 vị Phật gi&aacute;o, với một vị quận trưởng Gaya l&agrave;m chủ tịch. V&agrave;o năm 2002, ng&ocirc;i đền Mahabodhi (Đại gi&aacute;c ngộ tự) ở Bodh Gaya đ&atilde; trở th&agrave;nh Di sản thế giới.[17]</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Tại Bodh Gaya c&ograve;n c&oacute; cội Bồ-đề, đ&oacute; l&agrave; nơi c&oacute; c&acirc;y bồ đề đ&atilde; che b&oacute;ng m&aacute;t cho Đức Phật khi &ocirc;ng ngồi thiền v&agrave; đạt tới gi&aacute;c ngộ. Một c&agrave;nh chiết từ c&acirc;y bồ đề nguy&ecirc;n thủy đ&atilde; được vua Asoka gửi tặng cho vua Devanampiya Tissa (Thi&ecirc;n-&Aacute;i-Đế-Tu) tại Sri Lanka v&agrave;o năm 247 trước T&acirc;y lịch. Con g&aacute;i của vua Asoka l&agrave; Tỳ-kheo-ni Sanghamitta (Tăng-gi&agrave;-mật-đa) đ&atilde; sang Sri Lanka với mục đ&iacute;ch th&agrave;nh lập ni đo&agrave;n Phật gi&aacute;o đ&atilde; mang nh&aacute;nh bồ-đề n&agrave;y qua T&iacute;ch Lan, đem đến trồng ở Anuradhapura, tại đ&acirc;y n&oacute; đ&atilde; ph&aacute;t triển th&agrave;nh một c&acirc;y to. Sau n&agrave;y người Sri Lanka đ&atilde; gọi c&acirc;y bồ-đề n&agrave;y l&agrave; &quot;Sri-Maha Bodhi&quot;, nghĩa l&agrave; &quot;C&acirc;y Bồ Đề C&aacute;t Tường Vĩ Đại&quot;. Cho tới nay, trải qua gần 2.300 năm, C&acirc;y Bồ Đề Vĩ Đại vẫn sống tươi tốt v&agrave; được người Sri Lanka coi l&agrave; quốc bảo. Rất nhiều nh&aacute;nh từ c&acirc;y n&agrave;y đ&atilde; được chiết để gửi đi trồng ở ch&ugrave;a chiền khắp nơi tr&ecirc;n thế giới.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>C&ugrave;ng chung với số phận thăng trầm của lịch sử Phật gi&aacute;o ở Ấn Độ, c&acirc;y bồ-đề ở Bodh Gaya đ&atilde; nhiều lần bị chặt đốt, thi&ecirc;u hủy do thi&ecirc;n tai v&ocirc; thường t&aacute;c động v&agrave; do những người th&ugrave; gh&eacute;t đạo Phật muốn x&oacute;a tan vết t&iacute;ch của n&oacute;. Thế nhưng trải qua bao nguy khốn, d&ograve;ng d&otilde;i hậu duệ của c&acirc;y bồ đề vẫn kh&ocirc;ng tuyệt diệt m&agrave; vẫn tiếp tục b&aacute;m trụ v&agrave; đ&acirc;m chồi nảy lộc, đời sau nối tiếp đời trước che b&oacute;ng m&aacute;t cho nơi Phật đ&atilde; ngồi khi th&agrave;nh đạo, c&acirc;y bồ đề hiện nay &iacute;t nhất đ&atilde; l&agrave; đời thứ s&aacute;u của c&acirc;y bồ-đề nguy&ecirc;n thủy đ&atilde; che m&aacute;t cho Đức Phật. Mặc d&ugrave; trải qua nhiều lần sinh diệt, nhưng vị tr&iacute; c&acirc;y bồ đề ng&agrave;y nay so với gốc c&acirc;y ban đầu vẫn kh&ocirc;ng c&oacute; sự thay đổi chuyển dịch, vẫn định vị như gốc c&acirc;y bồ đề nguy&ecirc;n thủy, nơi khoảng 2.600 năm về trước, th&aacute;i tử Tất-đạt-đa đ&atilde; ngồi trong đ&ecirc;m gi&aacute;c ngộ th&agrave;nh Phật. Với lịch sử hiển h&aacute;ch n&agrave;y, c&oacute; thể n&oacute;i c&acirc;y bồ-đề tựa như một biểu tượng cao cả cho những t&iacute;n đồ Phật gi&aacute;o đ&atilde; truyền đời nhau suốt 2.600 năm bảo tồn Ch&aacute;nh ph&aacute;p m&agrave; Phật Th&iacute;ch Ca truyền dạy cho thế gian.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Ngoại h&igrave;nh</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Bức tượng đầu Phật ở v&ugrave;ng Hana, Afghanistan, trưng b&agrave;y tại một bảo t&agrave;ng ở Lu&acirc;n Đ&ocirc;n.</div>
<div>C&oacute; nhiều mi&ecirc;u tả về ngoại h&igrave;nh của Tất-đạt-đa trong c&aacute;c kinh điển Phật gi&aacute;o. L&agrave; một vị ho&agrave;ng tử c&oacute; đầy đủ 32 tướng tốt, &ocirc;ng đ&atilde; được tập huấn, r&egrave;n luyện sức mạnh, được nu&ocirc;i dạy rất chu đ&aacute;o về cả văn lẫn v&otilde;. Từ năm 13 tuổi &ocirc;ng được truyền thụ v&otilde; nghệ v&agrave; c&oacute; sở trường bắn cung. Từ l&uacute;c trước khi ra đi t&igrave;m đạo, &ocirc;ng đ&atilde; l&agrave; người c&oacute; cơ thể cường tr&aacute;ng, phi ph&agrave;m hơn người.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Một người B&agrave; la m&ocirc;n Sonadanda mi&ecirc;u tả ngoại h&igrave;nh &ocirc;ng l&agrave; &quot;đẹp trai, ưa nh&igrave;n, c&ugrave;ng với một l&agrave;n da rất đẹp. &Ocirc;ng ta c&oacute; vẻ ngo&agrave;i thần th&aacute;i v&agrave; oai nghi&ecirc;m...&quot; &Ocirc;ng đẹp đẽ, xinh tươi, dễ nh&igrave;n, một h&igrave;nh sắc tốt đẹp nhất, h&igrave;nh thể v&agrave; n&eacute;t trang nghi&ecirc;m của &ocirc;ng như Brahma (Phạm Thi&ecirc;n), ngoại h&igrave;nh của &Ocirc;ng đẹp đẽ (Digha Nikaya, Kinh số 4).</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>&Ocirc;ng đẹp đẽ, g&acirc;y được niềm tin, với &yacute; thức điềm tĩnh v&agrave; t&acirc;m tr&iacute; thanh tịnh, trầm tĩnh v&agrave; tự chủ, như một con voi được thuần phục một c&aacute;ch ho&agrave;n hảo (Anguttara Nikaya, Kinh số 36).</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>C&oacute; những đệ tử của &ocirc;ng đang trong qu&aacute; tr&igrave;nh tu tập chưa trở th&agrave;nh A la h&aacute;n, bị m&ecirc; hoặc bởi vẻ ngo&agrave;i của &ocirc;ng, nhưng đ&atilde; được &ocirc;ng khuy&ecirc;n chấm dứt việc đ&oacute;, v&agrave; nhắc nhở rằng kh&ocirc;ng n&ecirc;n nh&igrave;n &ocirc;ng bằng h&igrave;nh tướng b&ecirc;n ngo&agrave;i, m&agrave; n&ecirc;n nh&igrave;n v&agrave;o gi&aacute;o ph&aacute;p của &ocirc;ng truyền dạy th&igrave; mới thấy được một Như Lai ch&acirc;n thật. Trong kinh Kim cang c&oacute; b&agrave;i kệ: &ldquo;Nhược dĩ sắc kiến ng&atilde;, dĩ &acirc;m thanh cầu ng&atilde;, thị nh&acirc;n h&agrave;nh t&agrave; đạo, bất năng kiến Như Lai&rdquo;, tức l&agrave; nếu d&ugrave;ng sắc thấy Ta, d&ugrave;ng &acirc;m thanh cầu Ta, người đ&oacute; h&agrave;nh đạo t&agrave;, kh&ocirc;ng thể thấy Như Lai.</div>
<div>&nbsp;</div>
<div>Kh&ocirc;ng c&oacute; một t&aacute;c phẩm, văn bản n&agrave;o mi&ecirc;u tả r&otilde; ngoại h&igrave;nh Tất-đạt-đa Cồ-đ&agrave;m dưới dạng con người cho đến khoảng thế kỷ thứ I TCN, sau thời gian đ&oacute; th&igrave; mới bắt đầu c&oacute; những m&ocirc; tả về h&igrave;nh d&aacute;ng được cho l&agrave; của &ocirc;ng trong Kinh Lakkhaṇa Sutta. Ngo&agrave;i ra, Yasodhara m&ocirc; tả sơ lược h&igrave;nh d&aacute;ng của Tất-đạt-đa Cồ-đ&agrave;m sau khi &ocirc;ng lần đầu ti&ecirc;n trở lại cung điện của m&igrave;nh trong kinh điển Pali, Narasīha Gāthā. Trong 32 tướng tốt, người ta n&oacute;i &ocirc;ng c&oacute; đ&ocirc;i mắt xanh biếc.</div>
Theo các bộ kinh Phật giáo truyền lại và sử liệu, ông là một vương tử hoàng tộc Gautama (Cồ-Đàm) của tiểu quốc Shakya (Thích-ca) ở Kapilavastu (Ca-tỳ-la-vệ), đã từ bỏ đời sống phú quý để tìm đạo. Sau sáu năm cầu đạo, ông đạt được giác ngộ tâm linh và dành 45 năm cuối của cuộc đời mình cho việc truyền dạy giáo lý ở phía đông tiểu lục địa Ấn Độ. Siddhārtha đã đề xướng con đường Trung đạo (Majjhimāpaṭipadā), vừa từ bỏ đời sống xa hoa và cũng vừa từ bỏ lối tu ép xác khổ hạnh thịnh hành trong các học thuyết tôn giáo Ấn Độ thời đó[6]. Những lời giáo pháp trong thời gian ông đi truyền bá đã đặt nền tảng cho sự hình thành của Phật giáo.
 
Siddhārtha Gautama được các Phật tử coi là một bậc đạo sư đã giác ngộ viên mãn và tự giải thoát hoàn toàn khỏi quy luật sinh tử luân hồi, hiểu rõ được sự vận hành của thế giới xung quanh, đồng thời truyền bá kinh nghiệm giác ngộ của mình cho người khác để họ có thể tự chấm dứt khổ đau bản thân, có được hạnh phúc tối thượng. Chi tiết về cuộc đời, những lời dạy và các giới luật của ông được những học trò ghi nhớ và tổng hợp lại sau khi Siddhārtha Gautama qua đời. Hàng loạt những bản kinh ghi lại lời dạy của ông được lưu giữ qua truyền miệng và được viết thành sách 200 năm sau.
 
Bối cảnh và gia thế
 
Dù có nhiều hoài nghi và do dự trước đây, nhưng sau các khám phá khảo cổ vào đầu thế kỷ 20, hầu hết các học giả ngày nay đều công nhận ông đã sống và truyền dạy giáo lý trong thời Mahajanapada dưới thời cai trị của Bimbisāra (Tần-bà-sa-la)( 558 - 491 TCN) và qua đời trong thời gian đầu của triều đại Ajātaśatru (A-xà-thế), người kế thừa của Bimbisāra. Cuộc đời của Siddhartha không những trùng hợp với thời kỳ phát triển của Bà-la-môn, mà còn trùng với sự phát triển của trường phái tu khổ hạnh Sramana như Kỳ-na giáo, Ājīvika, Ajñana, Cārvāka (triết học duy vật khoái lạc).
 
Thời điểm chính xác năm sinh và năm mất theo lịch hiện đại của ông không được ghi nhận rõ, dao động trong khoảng từ 624 tới 537 trước Công nguyên. Tuy nhiên, đại hội Phật giáo thế giới đã thống nhất cho rằng Siddhartha sinh khoảng năm 624 trước Công nguyên[8] và qua đời khi 80 tuổi (năm 544 TCN).
 
Cha ông là Suddhodana (Tịnh-phạn), người đứng đầu tiểu quốc Shakya (Thích-ca), một tiểu quốc nằm ở vùng biên giới Ấn Độ - Nepal ngày nay, có kinh đô là Kapilavastu (Ca-tỳ-la-vệ)). Mẹ ông là Maya (Ma-da), người tiểu quốc Koli láng giềng.
 
Cuộc sống ban đầu và hôn nhân
Tất-đạt-đa được sinh ra tại vườn Lumbini (Lâm-tỳ-ni), nay thuộc Nepal.
 
Kinh Bản Sinh (Jataka) ghi về nhân duyên làm thân mẫu Phật của bà Maya như sau: cách đây 91 đại kiếp Trái đất, đã có 1 vị Phật Chánh Đẳng Giác tên là Vipassī (Phật Tỳ-bà-thi) ra đời. Có một công nương (con một vị đại thần trong triều đình) đã cúng dường Phật Tỳ-bà-thi với lòng chí thành và ước nguyện rằng trong tương lai, cô sẽ được làm mẹ của 1 vị Phật. Đức Phật Tỳ-bà-thi đã thọ ký cho cô sẽ được như nguyện. Công nương đó chính là tiền kiếp của hoàng hậu Maya
 
Nhà tiên tri Asita (A-tư-đà) dự đoán sau này đứa trẻ Siddhartha sau này sẽ trở thành đấng giác ngộ và truyền dạy chánh pháp cho thế gian
Trước đó mười tháng, trong khi được vua cho phép giữ 8 giới thanh tịnh nhân dịp lễ cầu mưa (Asadh Utsav), tại thành Kapilavastu (Ca-tỳ-la-vệ), hoàng hậu Maya nằm mộng thấy một con voi trắng sáu ngà, vòi cuốn một hoa sen lớn màu trắng, từ trên trời bay xuống chui vào hông phải của bà, lúc đó bà cảm thấy thân tâm khoái lạc, sáng chói như ánh trăng rằm. Thức dậy, bà đem chuyện giấc mộng kỳ lạ kể cho nhà vua nghe. Nhà vua liền cho mời 64 nhà tiên tri Bà-la-môn đến giải mộng; các vị này đoán là hoàng hậu đã mang thai và hoàng tử sắp được sinh ra sẽ là một đại đế hoặc một thánh nhân tiếng tăm lừng lẫy.
 
Theo các kinh điển Phật giáo, ngay từ lúc sinh ra, ông đã có đầy đủ tướng tốt (Ba mươi hai tướng tốt). Tên được chọn là Siddhartha (Tất-Đạt-Đa) có nghĩa là “người thành đạt nguyện vọng”.
 
Lúc này Vua Suddhodana nghe 1 tin đồn sẽ có 1 vị cao nhân đến thăm. Người đó là tu sĩ Asita (A-tư-đà), đã chứng thiền tới cấp rất cao - Phi tưởng phi phi tưởng. Khi xem các tướng của thái tử thì thái tử giơ 2 chân lên đầu Asita, ngài nhìn xuống lòng bàn chân và nói "Dưới 2 lòng bàn chân của thái tử, có hình bánh xe ngàn căm và 32 tướng tốt, sau này chắc chắc thái tử sẽ là một nhà tu hành đắc đạo, hoặc là một chuyển luân thánh vương cai trị toàn Ấn Độ". Khi tiên nhân Asita vừa nói xong ngài bật khóc, vua Suddhodana hỏi tại sao khóc thì tiên nhân Asita đáp lại rằng "sau này tôi không thể nghe 1 bậc thánh nhân giảng pháp vì tôi đã quá già rồi" (tu sĩ Asita đã tiên tri được rằng thọ mạng của ông sắp hết, ông sẽ qua đời trước khi Siddhartha thành đạo). Nói xong vua cha Suddhodana bực tức, nói rằng "Con ta sẽ là 1 bậc chuyển luân thánh vương, và sẽ là 1 Kshastriya (Sát-đế-lỵ), nên tôi xin mời tiên nhân về cho, tôi còn phải cho các thần dân xem con tôi đã". Lúc này tiên nhân Asita đi về và nén lại giữa đám đông để nhìn mặt của thái tử và đệ tử ông cũng có hỏi rằng "tại sao ngài không về", Asita đáp "Vì ta đang nhìn cả 1 vũ trụ lần cuối".
 
Tranh vẽ thái tử Siddhartha và bà Mahaprajapati (tranh vẽ theo phong cách Hy Lạp cổ)
Bảy ngày sau khi sinh thì hoàng hậu Maya - mẹ của Siddhartha mất, ông được người dì ruột là Mahāpajāpatī Gotamī (Ma-ha-ba-xà-ba-đề) - Đại-Ái-Đạo Kiều Đàm Di chăm sóc. Bà Gotamī là em gái của hoàng hậu Maya (cả hai cùng kết hôn với vua Suddhodana) đã tình nguyện nhận nuôi dưỡng Thái tử Siddhartha, còn con ruột của m&

File Attachment Icon
300px-BabyBuddha.jpg
File Attachment Icon
240px-Prince_Siddhartha_with_his_maternal_aunt_Queen_Mahaprajapati_Gotami.jpg
File Attachment Icon
tranh-xo-dua-duc-phat-ngoi-duoi-coi-bo-de-cung-chu-ty-kheo.jpg